Bảo vệ, phát huy giá trị tài nguyên di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch bền vững
TCCS - Đất nước ta có bề dày lịch sử, văn hóa hàng nghìn năm với hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng đa dạng, độc đáo, giàu giá trị. Các di sản văn hóa không chỉ làm phong phú đời sống tinh thần cho con người và xã hội, mà còn là nguồn lực quý giá để phát triển ngành du lịch theo hướng bền vững.
1- Di sản văn hóa là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Điều 1, Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) xác định rõ: Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở Việt Nam. Trong đó, di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác; di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Luật Du lịch năm 2017 phân chia tài nguyên du lịch thành hai loại: 1- Tài nguyên du lịch tự nhiên, bao gồm cảnh quan thiên nhiên, các yếu tố địa chất, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái và các yếu tố tự nhiên khác có thể được sử dụng cho mục đích du lịch; 2- Tài nguyên du lịch văn hóa bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, di tích cách mạng, khảo cổ, kiến trúc; giá trị văn hóa truyền thống, lễ hội, văn nghệ dân gian và các giá trị văn hóa khác; công trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử dụng cho mục đích du lịch. Theo đó, di sản văn hóa được xác định là một nguồn tài nguyên, nguồn lực quan trọng phục vụ cho phát triển du lịch.
Theo thống kê của Cục Di sản (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), tính đến cuối năm 2022, trên toàn quốc có khoảng 7 vạn di sản văn hóa phi vật thể, trong đó có 15 di sản được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) ghi danh vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Về di sản văn hóa vật thể, cả nước có trên 10.000 di tích cấp tỉnh, thành phố; 3.591 di tích quốc gia, 123 di tích quốc gia đặc biệt, hơn 4 vạn di tích đã được kiểm kê theo quy định của Luật Di sản văn hóa(1), 5 di sản văn hóa thế giới, 1 di sản hỗn hợp thế giới - Quần thể danh thắng Tràng An (duy nhất tại Việt Nam và Đông Nam Á), 265 hiện vật, nhóm hiện vật được Thủ tướng Chính phủ công nhận là bảo vật quốc gia.
Với kho di sản văn hóa giàu có này, trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước, Việt Nam ngày càng coi trọng nguồn lực di sản và xem di sản văn hóa nói riêng và văn hóa nói chung là một loại tài nguyên, nếu được sử dụng phù hợp sẽ là động lực, chất xúc tác cho phát triển bền vững. Có thể nói, di sản văn hóa là tài nguyên quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; được hun đúc và phát triển qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước với những biến cố thăng trầm của lịch sử; là biểu tượng của sự trường tồn; là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của dân tộc. Hệ thống di sản văn hóa không những tạo nên sự đa dạng, phong phú, bản sắc của nền văn hóa dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế, mà còn là nhân tố, nguồn lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trên phương diện kinh tế - xã hội, nhiều di sản văn hóa đã trở thành sản phẩm văn hóa - du lịch hoàn chỉnh, vừa là động lực, vừa là mục tiêu cho sự phát triển du lịch.
2- Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, sự phát triển của du lịch phụ thuộc rất nhiều vào tài nguyên và môi trường. Theo Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) và Tổ chức Du lịch quốc tế (UNWTO), du lịch bền vững là du lịch có tính đến tác động kinh tế, xã hội và môi trường trong hiện tại và tương lai, giải quyết nhu cầu của khách du lịch, ngành công nghiệp, môi trường và cộng đồng tại chỗ(2). Vì vậy, du lịch bền vững cần sử dụng một cách tối ưu tài nguyên, duy trì các quá trình sinh thái thiết yếu, giúp bảo tồn di sản thiên nhiên và đa dạng sinh học; tôn trọng tính xác thực về văn hóa - xã hội của các cộng đồng tại chỗ, bảo tồn di sản văn hóa, các giá trị truyền thống sống động, đồng thời đóng góp vào sự hiểu biết và hài hòa giữa các nền văn hóa; bảo đảm các hoạt động kinh tế lâu dài, khả thi, phân chia công bằng lợi ích về kinh tế - xã hội cho tất cả các bên liên quan, bao gồm tạo việc làm ổn định, cơ hội tạo thu nhập cũng như dịch vụ xã hội cho cộng đồng tại chỗ và góp phần xóa đói, giảm nghèo. Việc phát triển du lịch bền vững đòi hỏi sự đồng thuận và tham gia rộng rãi của mọi tầng lớp, đối tượng trong xã hội và sự tham gia có ý thức của tất cả các bên liên quan.
Có thể thấy, phát triển du lịch bền vững là phát triển hoạt động du lịch với mục tiêu mang lại lợi ích kinh tế, tạo việc làm cho xã hội và cộng đồng; thỏa mãn các nhu cầu đa dạng của các thành phần tham gia du lịch trên cơ sở khai thác các nguồn tài nguyên; đồng thời, có ý thức đầu tư tôn tạo, bảo tồn và duy trì tính nguyên vẹn của các nguồn tài nguyên di sản văn hóa, bảo đảm môi trường trong sạch; phải gắn trách nhiệm và quyền lợi của cộng đồng trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệ các loại tài nguyên, môi trường. Việc phát triển du lịch bền vững là phù hợp với xu thế chung, tất yếu của thế giới, bảo đảm sự phát triển chung của mỗi quốc gia. Hiện nay, vấn đề kết hợp giữa bảo vệ, khai thác, phát huy giá trị di sản với phát triển du lịch ở nước ta đang được áp dụng, triển khai ở nhiều địa phương, vùng di sản và đang tạo ra nhiều kết quả khả quan, nhất là về mặt kinh tế, nhưng cũng đang gây ra không ít hệ lụy tiêu cực đối với việc bảo tồn di sản văn hóa.
Về mặt tích cực, việc phát triển hoạt động du lịch văn hóa có thể đem lại nhiều lợi ích cho công tác bảo tồn, khai thác, sử dụng tài nguyên di sản văn hóa. Cụ thể như:
Thứ nhất, thông qua phát triển du lịch văn hóa, khách du lịch và cả cộng đồng cư dân sinh sống trên không gian vùng di sản có thể nhận thức đầy đủ về sức hấp dẫn, độc đáo và giá trị văn hóa ẩn chứa trong di sản văn hóa. Từ đó, chính quyền địa phương sẽ có biện pháp chủ động để bảo vệ tài nguyên di sản văn hóa, xây dựng thành thương hiệu, biểu tượng của địa phương; người làm công tác phát triển du lịch sẽ bảo vệ và duy trì đúng mức đối với di sản nhằm bảo đảm lợi ích kinh tế và lợi nhuận mà du lịch di sản văn hóa mang lại.
Thứ hai, phát triển du lịch trên nền tảng khai thác giá trị di sản văn hóa có thể được sử dụng bền vững và giá trị kinh tế có thể được tạo ra liên tục. Lợi ích kinh tế bao gồm lợi ích trực tiếp thu được từ vé du lịch và hoạt động du lịch liên quan đến di sản và lợi ích gián tiếp thu được do phát triển các ngành dịch vụ liên quan. Phát triển du lịch trên vùng di sản góp phần thúc đẩy hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng, như cơ sở lưu trú, giao thông, trung tâm kinh tế - thương mại, dịch vụ thông tin, dịch vụ tài chính, dịch vụ vui chơi giải trí, trải nghiệm...; kích thích chi tiêu, tạo nguồn thu cho địa phương và vùng di sản, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống của người dân trong vùng, qua đó góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.
Thứ ba, bằng cách tham quan, lưu trú, trải nghiệm trên các vùng di sản, khách du lịch có thể trực tiếp giao lưu, tiếp xúc, cảm nhận đầy đủ toàn bộ không gian tồn tại của di sản văn hóa; có thêm nhiều trải nghiệm với xúc cảm thú vị đối với không gian di sản. Điều này sẽ khuyến khích mong muốn bảo vệ di sản, quảng bá, lan tỏa, tuyên truyền về di sản và không gian di sản của khách du lịch và người dân, thúc đẩy du lịch phát triển mạnh mẽ hơn.
Trên thực tế, ở Việt Nam, nhiều địa phương trên cả nước đã và đang hình thành, phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa khá đa dạng, như tuyến du lịch kết nối di sản thế giới các nước ASEAN, tuyến du lịch di sản miền Trung, tuyến du lịch trên khu di sản thế giới hỗn hợp Tràng An, festival Huế, festival biển Nha Trang, lễ hội carnaval Hạ Long...; các chương trình nghệ thuật đặc sắc, như “Ký ức Hội An”, “Tinh hoa Bắc Bộ”... Năm 2023, Tổ chức Giải thưởng Du lịch thế giới (WTA) bình chọn Việt Nam là “Điểm đến di sản hàng đầu thế giới”. Đây là lần thứ tư Việt Nam được nhận giải thưởng này. Đây là minh chứng sống động cho việc phát huy giá trị của di sản trong phát triển du lịch, khẳng định ảnh hưởng tích cực của các di sản văn hóa tại Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tạo sinh kế cho cộng đồng địa phương, vùng có di sản, góp phần cân bằng và bảo vệ môi trường, thúc đẩy sự phát triển bền vững. Có thể nói, hoạt động du lịch bền vững không chỉ tạo ra giá trị kinh tế, mà còn thúc đẩy sự ủng hộ của cộng đồng đối với việc bảo vệ, khai thác và tôn vinh giá trị của di sản trong tương lai.
Về mặt tiêu cực, việc phát triển du lịch có thể tạo ra nguy cơ, thách thức đối với việc bảo tồn di sản văn hóa như:
Thứ nhất, vận hành thương mại quá mức sẽ dẫn đến hiện tượng đô thị hóa, thương mại hóa, nhân tạo hóa và cả tình trạng quá tải tại các khu di sản. Ở một số nơi, hoạt động du lịch theo đuổi lợi ích kinh tế ngắn hạn, bỏ qua tính dễ bị tác động của di sản văn hóa và các vấn đề liên quan di sản văn hóa, như sự vượt quá khả năng về năng lực vận chuyển du lịch, đón khách du lịch, việc chú trọng lợi ích trước mắt mà bỏ qua lợi ích lâu dài, coi trọng lợi ích địa phương hơn lợi ích tổng thể quốc gia; coi trọng lợi ích trực tiếp hơn lợi ích gián tiếp. Bên cạnh đó, tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng; dẫn đến tình trạng hư hỏng, xuống cấp, biến dạng di sản văn hóa.
Thứ hai, trong quá trình khai thác di sản phục vụ hoạt động du lịch, các nguyên tắc về tính xác thực, toàn vẹn của việc bảo vệ di sản cũng như nhu cầu bảo vệ lâu dài, sử dụng bền vững thường không được chú trọng; các giá trị đặc trưng, bản sắc di sản và môi trường, không gian tồn tại của di sản bị phá hủy hoặc bị làm sai lệch. Khách sạn, nhà hàng, cửa hàng, biệt thự, cáp treo và công trình cảnh quan quy mô lớn được xây dựng ở những nơi không phù hợp trong vùng di sản văn hóa hoặc việc xây dựng lộn xộn, kiến trúc không tương thích khiến cho di sản văn hóa trở nên lạc lõng, suy giảm giá trị vốn có.
Thứ ba, việc khai thác di sản văn hóa cho du lịch có nơi chưa được phân chia công bằng cho đại bộ phận cộng đồng địa phương. Ở nhiều nơi, phát triển du lịch dựa trên tài nguyên di sản không mang lại lợi ích cho sự phát triển chung của cộng đồng; không tạo ra sinh kế cho cộng đồng dân cư địa phương; đôi khi còn tạo ra sự bất bình đẳng, chênh lệch giàu - nghèo; hoặc cộng đồng địa phương không được trao quyền, không được tham gia, không được hưởng lợi phù hợp; cộng đồng chưa thực sự trở thành chủ nhân, đối tượng, mục tiêu hướng tới của sự phát triển du lịch trên nền tảng giá trị di sản.
Thứ tư, việc phát triển du lịch có thể làm suy yếu của các cấu trúc xã hội hoặc lối sống, nếp sống truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp trong vùng di sản.
3- Có thể thấy, đến nay, quan điểm về di sản văn hóa của Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII vẫn còn nguyên giá trị. Đó là: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”(3). Quan điểm này được thống nhất trong các kỳ đại hội của Đảng và được nhấn mạnh trong bài phát biểu của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngày 24-11-2021: Di sản văn hóa là “tài sản vô cùng quý báu do Tổ tiên, Cha ông ta mấy nghìn năm để lại”(4)...; do đó cần “quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, của đồng bào các dân tộc”(5).
Trước yêu cầu của thời kỳ mới, để nâng cao hiệu quả bảo tồn, phát huy di sản và gắn kết hiệu quả giữa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa và phát triển du lịch theo hướng bền vững cần thực hiện các nguyên tắc, yêu cầu và một số giải pháp chủ yếu sau:
Nguyên tắc chung trong kết hợp bảo tồn, phát huy di sản văn hóa và phát triển du lịch là khi thực hiện hoạt động du lịch ở địa phương và vùng di sản, cần lưu giữ đầy đủ những yếu tố về không gian môi trường tự nhiên, văn hóa lịch sử của di sản để bảo đảm tính xác thực của di sản văn hóa. Di sản không tồn tại độc lập mà tồn tại trong không gian tự nhiên và xã hội nhất định, tạo thành một tổng thể chung. Cần bảo vệ cả di sản văn hóa và toàn bộ môi trường tự nhiên, xã hội và không gian văn hóa xung quanh nó. Nguyên tắc cao nhất đối với việc bảo vệ di sản văn hóa là tạo điều kiện cho di sản văn hóa, không gian tồn tại của di sản được phát triển phù hợp và bền vững. Mục đích chính của việc bảo tồn di sản văn hóa là truyền lại đầy đủ tinh thần, tư duy, cảm xúc, thẩm mỹ và giá trị lịch sử - văn hóa mà nó chứa đựng cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Vì vậy, cần có biện pháp khoa học trong quá trình bảo vệ, khai thác, phát huy di sản văn hóa để làm cho di sản văn hóa không những được tiếp tục tồn tại, mà còn có thêm “đời sống mới” trong bối cảnh mới trên nền tảng giữ vững giá trị đặc sắc vốn có của di sản.
Khi khai thác tài nguyên di sản văn hóa phục vụ hoạt động du lịch, cần đáp ứng các yêu cầu sau:
Thứ nhất, bảo đảm di sản văn hóa không bị khai thác quá mức giới hạn, đem đến tác động tiêu cực về môi trường, văn hóa, kinh tế - xã hội; đồng thời, cần tránh bảo tồn di sản văn hóa một cách cứng nhắc, thiếu sức sống và không được phát huy hiệu quả. Phát triển du lịch trên cơ sở bảo tồn và phát huy, làm giàu, tôn trọng, giữ gìn những giá trị cốt lõi, bản sắc, tính độc đáo của tài nguyên văn hóa thông qua việc xây dựng sản phẩm du lịch xanh đặc trưng có chất lượng cao và thân thiện với môi trường; đồng thời, giảm thiểu tối đa tác động tiêu cực từ du lịch đến tài nguyên di sản văn hóa.
Thứ hai, quản lý di sản văn hóa với tư cách là tài nguyên du lịch bằng thể chế, chính sách đồng bộ với cơ cấu tổ chức, nguồn lực tài chính và các biện pháp quản lý phù hợp, bảo đảm phát triển hài hòa, cân bằng. Quản lý, sử dụng tài nguyên di sản văn hóa gắn với bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên, sinh thái nhân văn của di sản theo khuyến cáo của UNESCO.
Thứ ba, bảo đảm sự tham gia của cộng đồng địa phương, nâng cao lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng, khuyến khích họ trở thành chủ nhân thực sự của hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Xử lý hài hòa mối quan hệ giữa các bên liên quan trong sử dụng hợp lý tài nguyên văn hóa gắn với phát triển du lịch xanh, góp phần giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm và an sinh xã hội.
Thứ tư, ứng dụng đổi mới sáng tạo, khoa học, công nghệ, chuyển đổi số, khuyến khích huy động nguồn lực của các chủ thể liên quan trong việc bảo vệ, phát huy tài nguyên di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch bền vững, có thể ở nhiều khía cạnh, như quản lý, sản xuất, kinh doanh, quảng bá, số hóa tư liệu, lưu trữ và cách thức tiêu dùng bền vững, thông minh, giảm tác động đến môi trường.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động bảo tồn, phát huy di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch bền vững, cần chú trọng thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, phương thức quản trị nhằm bảo tồn các yếu tố cốt lõi của di sản văn hóa - nền tảng thiết yếu cho phát triển du lịch bền vững và sử dụng tài nguyên di sản văn hóa một cách có kiểm soát để bảo vệ được tài nguyên, tối đa hóa tác động có lợi của du lịch; giảm thiểu tác động tiêu cực về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường. Hoạch định chiến lược, kế hoạch trung hạn, dài hạn trong bảo vệ tài nguyên di sản văn hóa, trong đó chú trọng hoạt động nghiên cứu, đánh giá tác động tiềm tàng đối với di sản và định hướng xử lý nhằm bảo đảm hiệu quả bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa trong phát triển du lịch.
Hai là, nâng cao nhận thức của người dân và cán bộ quản lý, cán bộ văn hóa và các tầng lớp nhân dân, nhất là cộng đồng người dân sinh sống trong vùng di sản về giá trị của các di sản văn hóa và trách nhiệm đối với việc bảo vệ, khai thác, phát huy giá trị di sản văn hóa. Đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá, lan tỏa thương hiệu di sản của địa phương nói riêng và đất nước, con người Việt Nam nói chung.
Ba là, tăng cường nguồn lực cho hệ thống quản lý di sản ở địa phương và vùng di sản. Hỗ trợ, đầu tư tài chính cho việc bảo vệ và phát huy tài nguyên di sản văn hóa. Các cơ quan quản lý cần áp dụng một tỷ lệ phù hợp được trích ra từ doanh thu du lịch để phục vụ hoạt động bảo tồn và quản lý các giá trị tài nguyên di sản văn hóa cũng như để đóng góp cho sự phát triển của cộng đồng địa phương.
Bốn là, tăng cường áp dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong việc gìn giữ, bảo tồn, khai thác, phát huy giá trị di sản, như xây dựng kho cơ sở dữ liệu số thông tin về khách du lịch, lịch sử, văn hóa, và môi trường; kho dữ liệu thông tin về điểm tham quan, lịch trình du lịch, và gợi ý hoạt động phù hợp trên vùng di sản; tăng cường công nghệ giám sát, bảo vệ, cảnh báo, phát hiện hoạt động bất thường; tư vấn du lịch thông minh cung cấp thông tin du lịch đa ngôn ngữ... Đa dạng hóa sản phẩm được tạo ra trên nền tảng di sản, để tài nguyên di sản văn hóa có thể tiếp tục được tái tạo, truyền thêm sức sống và gia tăng giá trị trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, đáp ứng nhu cầu của nhiều nhóm khách du lịch trong và ngoài nước.
Năm là, tăng cường phối hợp giữa các chủ thể, nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp và cộng đồng cư dân trong quá trình bảo vệ, khai thác và phát huy di sản gắn với phát triển du lịch theo hướng bền vững. Sự năng động, sức sống và tính bền vững của việc sử dụng hợp lý tài nguyên di sản văn hóa cho du lịch bền vững được định hình nhờ sự tương tác và hợp tác hiệu quả giữa các bên liên quan, như nhà khoa học, cộng đồng, khách du lịch, chính quyền địa phương, doanh nghiệp... Sự thành công của du lịch dựa trên nền tảng di sản văn hóa, ngoài vấn đề thể chế, cơ chế, chính sách, còn phụ thuộc vào nhiều tác nhân cụ thể, như người điều hành tour du lịch và nhân sự trong dịch vụ lưu trú, công tác vận chuyển và điểm tham quan... Vì vậy, cần tăng cường mối quan hệ giữa các bên liên quan, có tính đến lợi ích của cộng đồng, của các lực lượng tham gia vào thị trường và của chính quyền địa phương. Các quy trình hợp tác, đối thoại đóng vai trò quan trọng đối với việc giải quyết khác biệt để đạt được sự đồng thuận và thông qua quyết định để bảo đảm các mục tiêu bền vững, từ đó tạo ra lợi ích cho tất cả các bên. Có như vậy thì tài nguyên di sản mới thực sự phát huy hết được giá trị, phục vụ hiệu quả quá trình phát triển kinh tế - xã hội và góp phần giữ vững an ninh, trật tự cho các địa phương, vùng di sản nói riêng và cả nước nói chung./.
----------------------------
(1) Xem: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Báo cáo tổng kết 20 năm thi hành Luật Di sản văn hóa năm 2001 và hơn 10 năm thi hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa năm 2009, Hà Nội, 2022
(2) UNWTO and UNEP: Making Tourism More Sustainable - A Guide for Policy Makers (Tạm dịch: Làm cho du lịch bền vững hơn - Hướng dẫn cho các nhà hoạch định chính sách), 2005, tr. 12
(3) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, t. 57, tr. 309
(4), (5) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 979, tháng 12-2021, tr. 13
Phát triển du lịch cộng đồng, góp phần giữ vững thương hiệu “Nha Trang - điểm đến an toàn, văn minh, thân thiện”  (28/10/2024)
Phát triển năng lực hội nhập quốc tế ngành du lịch thành phố Đà Nẵng trong bối cảnh mới  (17/10/2024)
Bến Tre - Tầm nhìn hướng Đông và tiềm năng phát triển bền vững  (03/10/2024)
Một số giải pháp góp phần bảo đảm sinh kế bền vững cho cư dân Quần thể danh thắng Tràng An, tỉnh Ninh Bình  (10/09/2024)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
- Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam