TCCS - Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu thế giao lưu, hội nhập toàn cầu, văn hóa đang chịu sự tác động trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực. Nghiên cứu về phát triển văn hóa, nhận diện những vấn đề đang đặt ra hiện nay là một trong những nhiệm vụ cấp bách, quan trọng.
Những yếu tố cơ bản tác động quá trình phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam, phát triển văn hóa luôn giữ một vị trí quan trọng trong đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chủ trương của Đảng gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đã trở thành tư tưởng chủ đạo cho nhiều chương trình, kế hoạch phát triển. Sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị cùng với sự đầu tư của Nhà nước, sự tham gia của nhân dân là những nhân tố quyết định tạo ra những chuyển biến của sự nghiệp phát triển văn hóa, xây dựng con người những năm qua.
Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”(1). Đây là những định hướng quan trọng cho thấy vai trò và tầm quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Cùng với chủ trương, định hướng đó, những thành tựu của đất nước đã đạt được trong sự nghiệp đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung cũng như quá trình xây dựng, phát triển nền văn hóa nói riêng là những tiền đề thuận lợi để văn hóa tiếp tục phát triển trong những năm tới.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về văn hóa, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển bền vững, dù theo cách tiếp cận nào thì vai trò của văn hóa cũng hết sức quan trọng. Vì vậy, nhận thức và ứng xử đúng đối với văn hóa, xác định rõ những vấn đề về văn hóa đang đặt ra hiện nay là “chìa khóa” tạo lập một xã hội phát triển bền vững. Một số vấn đề cần phải kể đến là:
Thứ nhất, những tác động, ảnh hưởng của tiến trình hội nhập quốc tế.
Tiến trình hội nhập quốc tế, mở rộng giao lưu văn hóa ngày càng tạo ra những biến đổi to lớn và quan trọng trong đời sống văn hóa, nghệ thuật. Làn sóng toàn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia trên thế giới, đem đến cả những cơ hội và những thách thức mới đối với phát triển toàn cầu, trong đó có phát triển văn hóa. Tiến trình này cũng tác động đến văn hóa Việt Nam theo cả hai phương diện, tích cực và tiêu cực.
Sự bùng nổ các phương tiện truyền thông, các ngành công nghiệp giải trí, một mặt, tạo ra những cơ hội giao lưu văn hóa, tiếp biến những giá trị và tinh hoa văn hóa nhân loại, mặt khác, cũng là công cụ được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng, tiếp tục đẩy mạnh âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” nhằm tạo ra sự “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa ở nước ta. Các quá trình hội nhập, thẩm thấu, tích hợp giữa các giá trị; quá trình cạnh tranh, đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa truyền thống và hiện đại, giữa các nền văn hóa, giữa các quốc gia…, làm nảy sinh, ra đời các giá trị mới từ chính điều kiện và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội (như lối sống, kỹ năng sống, công nghệ thông tin và hội nhập quốc tế…); quá trình hình thành các giá trị quốc tế, nhân loại…, đòi hỏi những cách tiếp cận mới, tổng hợp, khoa học, thực tiễn về phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong giai đoạn mới.
Thứ hai, những biến đổi trong nhận thức về hệ giá trị quốc gia - dân tộc, hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam.
Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới cần có tư duy đột phá. Đó là tư duy mới về mối quan hệ giữa phát triển văn hóa với tăng trưởng kinh tế; phát triển văn hóa với phát triển con người, phát triển giáo dục, phát triển nguồn nhân lực; giữa phát triển văn hóa, con người với phát triển kinh tế - xã hội - môi trường…
Từ việc nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế trong quá trình phát triển, cần đánh giá sâu sắc thực trạng mối quan hệ này ở nước ta hiện nay đặt trong yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ phát triển chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu. Đảng và Nhà nước luôn coi trọng phát triển văn hóa và con người; nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách và giải pháp đã được thực hiện và trên thực tế đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề cần chú ý trong lĩnh vực văn hóa:
Việc hình thành hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới chưa được định hình thật rõ nét, chưa tạo được sự đồng thuận xã hội cao, chưa trở thành những giá trị xã hội phổ quát được pháp lý hóa, chuẩn mực hóa trong đời sống thường nhật và do đó, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn, chưa trở thành động lực mạnh mẽ cho sự phát triển, nhất là trong lĩnh vực giáo dục (chẳng hạn như: ở nhiều nơi chú trọng việc “dạy chữ” hơn “dạy người”, dạy nghề; chưa thực sự chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống và nhân cách; nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu cả về chuyên môn nghề nghiệp và tác phong làm việc…).
Nhận thức và cơ chế, chính sách về phát huy bản sắc dân tộc trong môi trường đa văn hóa còn nhiều bất cập; phát huy bản sắc dân tộc có lúc, có nơi chỉ thiên về khôi phục và lưu giữ những giá trị truyền thống, chưa gắn với yêu cầu hiện đại hóa và phát huy tác dụng đối với phát triển kinh tế nói riêng và phát triển của đất nước nói chung trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng.
Trong thể chế, thiết chế, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế còn thiếu vắng các yêu cầu, tiêu chí phát triển văn hóa. Trong nhiều chính sách phát triển kinh tế, yếu tố văn hóa, yếu tố con người bị coi nhẹ do chạy theo tốc độ tăng trưởng và lợi ích kinh tế thuần túy. Việc thiếu định hướng các giá trị văn hóa, giá trị xã hội và các “kẽ hở” trong luật pháp, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế là một trong các điều kiện làm nảy sinh tình trạng tham nhũng, tiêu cực, những hành vi kinh doanh lừa đảo, trốn thuế, không coi trọng quyền và lợi ích của người lao động, người tiêu dùng và xã hội. Vì vậy, việc hoàn thiện thể chế, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế; gắn với coi trọng các giá trị văn hóa trong phát triển là một nhiệm vụ rất quan trọng.
Thứ ba, sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa.
Các ngành công nghiệp văn hóa đang phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới có tác động rất lớn đối với kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Theo định nghĩa của Tổ chức Giáo dục - Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), công nghiệp văn hóa là các ngành sản xuất ra những sản phẩm vật thể và phi vật thể về nghệ thuật và sáng tạo, có tiềm năng thúc đẩy tạo ra của cải và thu nhập thông qua việc khai thác những giá trị văn hóa, sản xuất những sản phẩm, dịch vụ dựa vào tri thức. Công nghiệp văn hóa được kết hợp bởi ba yếu tố: sự sáng tạo, kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất hiện đại, nhằm sản xuất ra các sản phẩm văn hóa đem lại lợi ích cao về kinh tế. Với nhiều nước trên thế giới, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh, Mỹ…, công nghiệp văn hóa là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, có những đóng góp to lớn vào tăng trưởng chung của đất nước. Quá trình phát triển kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ đã tạo cơ hội và điều kiện phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở mỗi quốc gia, đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh giữa các nước, đó cũng là cạnh tranh “sức mạnh mềm”.
Ở Việt Nam, các ngành công nghiệp văn hóa mới đang trong giai đoạn đầu phát triển, đang chịu áp lực bởi nhiều khó khăn, thách thức: Quản lý nhà nước chưa thích ứng với cơ chế thị trường, còn tình trạng quan liêu, thiếu minh bạch; sự phối hợp giữa các bộ, ngành chưa linh hoạt, thiếu liên kết; nhận thức về tiềm năng các ngành công nghiệp văn hóa chưa cao; tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ diễn ra khá phổ biến… Thực tế cho thấy, cơ chế, chính sách phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta chưa đồng bộ, sự đầu tư của Nhà nước cho lĩnh vực này còn hạn chế. Nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa chưa có tư duy kinh tế sâu sắc. Một số ngành công nghiệp văn hóa phát triển theo hướng xã hội hóa chưa mang tính chuyên nghiệp, chưa có sự đầu tư lớn theo một chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa dài hạn… Tuy nhiên, Việt Nam có rất nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Bề dày lịch sử phát triển cùng sự đa dạng bản sắc văn hóa của 54 dân tộc, những giá trị về văn hóa vật thể (các công trình kiến trúc nghệ thuật truyền thống...), những di sản văn hóa phi vật thể (quan họ, ca trù, hát xoan, cải lương, tuồng, chèo…)… thực sự là kho tàng văn hóa mà không phải quốc gia nào cũng có được. Trên cơ sở những tiềm năng, lợi thế này, nếu biết tận dụng cùng với sự phát triển của khoa học - công nghệ, đặc biệt trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Việt Nam chắc chắn sẽ xây dựng và phát triển thành công các ngành công nghiệp văn hóa.
Một số giải pháp trong thời gian tới
Để giải quyết những vấn đề đặt ra ở trên, khắc phục những mặt hạn chế, phát huy những nhân tố tích cực, tạo ra môi trường, điều kiện thuận lợi cho văn hóa phát triển, trở thành động lực và sức mạnh nội sinh quan trọng trong quá trình phát triển đất nước, thời gian tới, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy trên lĩnh vực văn hóa, trước hết, cần phải thực hiện nghiêm túc các giải pháp đã nêu trong Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; định hướng, đường lối của Đảng đã đề ra trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng, trong đó, tập trung tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của văn hóa, con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao nhận thức về vai trò của văn hóa trong phát triển.
Đưa nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa vào quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng cấp ủy, địa phương, ngành, tổ chức, đoàn thể. Đề cao vai trò, tính gương mẫu cũng như làm rõ trách nhiệm của người đứng đầu, các cá nhân, tập thể trong thực hiện nhiệm vụ, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức.
Thường xuyên bồi dưỡng lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng cho đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Xây dựng cơ chế lãnh đạo, quản lý khoa học, bảo đảm định hướng chính trị.
Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, vai trò của Liên hiệp các hội văn học, nghệ thuật ở Trung ương và địa phương trong việc tập hợp, tổ chức và động viên sự sáng tạo của nhân dân, của đội ngũ văn nghệ sĩ. Khuyến khích các tài năng trẻ, có hình thức tôn vinh xứng đáng các văn nghệ sĩ có công lao đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa.
Bám sát thực tiễn, thường xuyên tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm sâu sắc để việc ban hành các chủ trương, chính sách về văn hóa phù hợp với yêu cầu đặt ra, kịp thời nắm bắt và xử lý tốt các “điểm nóng” trên lĩnh vực văn hóa.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế; sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thấy rõ những tác động của kinh tế thị trường đến hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa, từ đó hoạch định những chính sách hợp lý. Việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa; từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về quyền văn hóa và các quyền liên quan vừa phù hợp với thực tiễn Việt Nam, vừa tiếp cận các chuẩn mực quốc tế phù hợp với đặc trưng văn hóa, con người Việt Nam. Xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển văn hóa dựa trên nhu cầu của nhân dân, điều kiện thực tiễn và chiến lược phát triển tổng thể của đất nước, cũng như từng địa phương. Thực thi chính sách kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa; có chính sách văn hóa đặc thù đối với các dân tộc thiểu số...
Đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa, thực thi chính sách trọng dụng nhân tài, đãi ngộ cán bộ phù hợp. Điều chỉnh chế độ tiền lương, trợ cấp đối với những người hoạt động trong các bộ môn nghệ thuật đặc thù.
Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy các chuyên ngành văn hóa. Xây dựng các trường văn hóa, nghệ thuật trọng điểm đạt chuẩn khu vực và quốc tế. Gửi sinh viên, cán bộ chuyên ngành văn hóa, nghệ thuật, thể thao đi đào tạo ở các nước phát triển. Chú trọng xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ là người dân tộc thiểu số, có chính sách khuyến khích họ trở về công tác tại địa phương.
Tăng đầu tư cho lĩnh vực văn hóa tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế. Sử dụng hiệu quả, công khai, minh bạch nguồn đầu tư của Nhà nước. Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và một số loại hình nghệ thuật truyền thống cần bảo tồn, phát huy. Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát triển văn hóa, xây dựng con người. Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về đất sử dụng, tín dụng, thuế và phí đối với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư, đặc biệt là ở vùng còn khó khăn. Khuyến khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá văn học, nghệ thuật, phát triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản...
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, gắn trách nhiệm cá nhân với tổ chức khi để xảy ra sai phạm. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư và công dân đối với việc tổ chức và quản lý hoạt động văn hóa. Tăng cường cơ chế phối hợp trong quản lý văn hóa với các bộ, ban, ngành, đoàn thể, đặc biệt là với các cơ quan giáo dục, thông tin, truyền thông, pháp luật, an ninh... Chủ động xử lý hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp và cộng đồng.
Chủ động đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng, đạo đức, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa. Ngăn chặn có hiệu quả tình trạng một số cơ quan báo chí, xuất bản hoạt động không đúng tôn chỉ, mục đích, một số sản phẩm văn hóa, văn nghệ lệch lạc, chạy theo thị hiếu tầm thường.
Thứ ba, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa tương xứng với tiềm năng và lợi thế.
Phát triển công nghiệp văn hóa giúp chuyển hóa nguồn “tài nguyên mềm” văn hóa thành những sản phẩm trên thị trường, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lan tỏa đặc trưng văn hóa của mỗi địa phương nói riêng và đất nước nói chung, làm cho văn hóa thẩm thấu sâu hơn, là nền tảng, sức mạnh nội sinh trong đời sống xã hội. Để phát huy hiệu quả tiềm năng và lợi thế của các ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta, trong thời gian tới, cần chú trọng một số giải pháp sau:
Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức và trách nhiệm về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa của các cấp, các ngành, địa phương và toàn xã hội về vị trí, vai trò của các ngành công nghiệp văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp trong việc đầu tư cho văn hóa như là một phần trong chiến lược kinh doanh và thể hiện trách nhiệm với xã hội, cộng đồng. Huy động sự tham gia rộng rãi, có hiệu quả của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.
Hai là, xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trong thời kỳ mới nhằm cải thiện điều kiện kinh doanh sản phẩm, dịch vụ văn hóa, nâng cao hiệu quả việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ và các quyền liên quan, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trên thị trường; các chính sách ưu đãi về vốn, thuế, đất đai, khuyến khích sáng tạo đối với văn nghệ sĩ, các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Ba là, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực chuyên môn, đào tạo nguồn nhân lực chuyên nghiệp cho các ngành công nghiệp văn hóa.
Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo nhằm nâng cao năng lực và cải thiện kỹ năng quản lý, kỹ năng kinh doanh trong các ngành công nghiệp văn hóa; tăng cường liên kết, hợp tác để các cơ sở giáo dục đại học, các viện nghiên cứu tham gia có hiệu quả vào phát triển nguồn nhân lực nói riêng cũng như phát triển các ngành công nghiệp văn hóa nói chung. Có chế độ đãi ngộ phù hợp để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, được đào tạo cơ bản, có kinh nghiệm chuyên môn cho các ngành công nghiệp văn hóa.
Bốn là, tăng cường ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại trong sáng tạo, sản xuất, phổ biến, lưu giữ các sản phẩm văn hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ văn hóa; thực hiện đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các ngành công nghiệp văn hóa gắn với ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại; nâng cao hàm lượng khoa học - kỹ thuật trong chuỗi sản xuất sản phẩm, dịch vụ của các ngành công nghiệp văn hóa.
Năm là, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế. Xây dựng và triển khai các chương trình quảng bá thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa, thương hiệu doanh nghiệp văn hóa Việt Nam, các tài năng tiêu biểu về văn hóa của đất nước tại các hội chợ quốc tế, liên hoan quốc tế; lồng ghép các chương trình quảng bá phát triển công nghiệp văn hóa gắn với các sự kiện ngoại giao. Đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ văn hóa, mở rộng giao lưu, trao đổi văn hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới; xây dựng và phát triển thị trường sản phẩm, dịch vụ văn hóa của Việt Nam ở nước ngoài.
Sáu là, khai thác thế mạnh của các địa phương trong phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.
Khi các địa phương phát huy được vai trò của các ngành công nghiệp văn hóa sẽ góp phần đa dạng hóa cơ cấu các ngành, nghề trong cấu trúc nền kinh tế theo hướng bền vững. Trước hết, lấy người dân địa phương làm chủ thể chính để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, họ thấu hiểu hơn ai hết những thế mạnh, bản sắc của địa phương. Ngoài ra, các địa phương cần chú ý đến việc đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao liên quan đến văn hóa sáng tạo để có thể biến tiềm năng trở thành động lực trong phát triển của địa phương. Cần có cơ chế thu hút nguồn lực từ xã hội tham gia vào quá trình phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, tăng cường tính liên kết giữa các ngành, các vùng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong việc phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy “số hóa” các ngành công nghiệp văn hóa địa phương./.
--------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 116
Hà Nội xây dựng nông thôn hiện đại gắn với bảo tồn và giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống  (02/11/2022)
Thành công trong xây dựng nhà văn hóa thôn kiểu thôn mẫu tại xã Thụy Văn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình  (18/10/2022)
Xây dựng nông thôn mới nâng cao gắn với mô hình “làng thông minh” ở tỉnh Bình Dương  (16/10/2022)
Công nghệ nhận diện khuôn mặt của VNPT giúp Việt Nam đạt kỷ lục mới  (04/10/2022)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm