“Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” - những vấn đề cần tiếp tục suy ngẫm
23:12, ngày 04-08-2014
TCCSĐT - Cách đây 50 năm, Nhà Trắng và Lầu Năm góc đã dựng lên màn kịch “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” với những lập luận mập mờ và dối trá rằng: Hải quân Bắc Việt Nam đã vô cớ tấn công tàu khu trục của Mỹ trên vùng biển quốc tế! Màn kịch đó đã có hiệu quả “tức thì”, giới hiếu chiến trong Chính quyền Mỹ xoa dịu được dư luận phản đối, trước hết là nhân dân Mỹ, tiếp đó đã đánh lừa được Quốc hội Mỹ trong việc cho phép Tổng thống được toàn quyền hành động.
Màn kịch “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”
Sự thật, ngày 02-8-1964 đã diễn ra cuộc đụng độ khi tàu khu trục Ma-đốc ngang nhiên vi phạm có hệ thống lãnh hải Việt Nam từ Đèo Ngang (Quảng Bình) ra đảo Hòn Mê (Thanh Hóa), có lúc vào sâu cách bờ biển Việt Nam chỉ 6 hải lý (1 hải lý = 1,852km) và đã bị các tàu phóng lôi của Hải quân Việt Nam đánh đuổi tại khu vực phía Đông Hòn Mê. Điều này được dư luận nhiều nước, có cả dư luận Mỹ thừa nhận và kịch liệt lên án hành động xâm phạm trắng trợn đó của Hải quân Mỹ.
Những người Mỹ chủ trương tiến đánh Bắc Việt Nam hiểu rằng, nếu chỉ vin vào cái cớ mà sự dối trá đã bị phơi bày để đánh phá miền Bắc Việt Nam thì “chưa đủ sức thuyết phục” dư luận. Vì vậy, Mỹ phải dựng thêm sự kiện khác rằng: “đêm 04-8-1964, các tàu phóng lôi của Hải quân Việt Nam một lần nữa lại vô cớ tấn công khu trục Ma-đốc và Tơ-nơ gioi của Mỹ đang hoạt động bình thường trên vùng biển quốc tế”(1). Đây là sự bịa đặt còn trắng trợn hơn nữa, bởi hôm đó thời tiết rất xấu, ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ đang có giông bão, hoàn toàn không có một tàu phóng lôi hoặc tàu chiến đấu nào của Việt Nam - lúc đó là những chiến hạm nhỏ bé, hoạt động trong khu vực mà Mỹ rêu rao.
Bất chấp dư luận và lẽ phải, Tổng thống Mỹ vẫn vin vào cớ đó để ngày 05-8-1964 ra lệnh tiến hành chiến dịch “Mũi tên xuyên”, bất ngờ cho 64 lần chiếc máy bay đánh “trả đũa” ồ ạt vào 4 khu vực trên miền Bắc Việt Nam là Cảng Gianh (Quảng Bình), Vinh - Bến Thủy ( Nghệ An), Lạch Trường (Thanh Hóa) và Bãi Cháy (Quảng Ninh) mở đầu cho cuộc chiến tranh phá hoại quy mô lớn vào miền Bắc Việt Nam, đồng thời dùng sự kiện đó để thuyết phục Quốc hội Mỹ thông qua cái gọi là “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ” ngày 07-8-1964. Nghị quyết này trao quyền cho Tổng thống Mỹ “tiến hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc sử dụng lực lượng vũ trang để giúp đỡ bất kỳ quốc gia nào là thành viên hoặc nước bảo trợ của Hiệp ước phòng thủ Đông Nam Á yêu cầu giúp đỡ”(2). Hai đời tổng thống Mỹ là L.Giôn-Xơn và R.Ních-xơn đã viện dẫn vào Nghị quyết sai trái này để biện hộ cho một cuộc chiến phi nghĩa và ngày càng khốc liệt ở Việt Nam. Để rồi, cuộc chiến tranh đó đã cướp đi sinh mạng của hơn 58.000 lính Mỹ và hàng triệu người Việt Nam bị chết hoặc bị ảnh hưởng nặng nề đến nhiều thế hệ.
Sự thật, “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” chỉ là cái cớ do Mỹ cố dựng lên để mở đầu và “hợp lý hóa” cho hành động mở rộng chiến tranh xâm lược. Vậy đâu là nguyên nhân thực sự?
Trước hết, xuất phát từ âm mưu chiến lược của đế quốc Mỹ đối với Việt Nam. Bước sang đầu những năm 50 (thế kỷ XX), cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp ngày càng đi vào ngõ cụt và trở thành gánh nặng cho cả nước Pháp. Chiến tranh càng kéo dài, nước Pháp càng lệ thuộc vào Mỹ. Mặc dù biết rõ hơn ai hết rằng nhận viện trợ Mỹ, Pháp sẽ mất dần quyền kiểm soát Đông Dương, nhưng Pháp không còn cách nào khác. Sự thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ không chỉ là nỗi cay đắng của người Pháp mà còn là sự thất bại của Mỹ. Chiến tranh kết thúc, đế quốc Mỹ coi Hiệp định Giơ-ne-vơ là một “thảm họa”, là “một bước tiến quan trọng của chủ nghĩa cộng sản, có thể dẫn đến việc mất cả Đông Nam Á”(3).
Từ chỗ “bật đèn xanh” cho Pháp quay lại xâm lược Việt Nam (năm 1945), đến chỗ tăng cường viện trợ và sau khi không cứu được Pháp, Mỹ đã hất cẳng Pháp, nhảy vào Đông Dương, dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, đưa cố vấn vào miền Nam, quyết thực hiện mưu đồ chia cắt lâu dài Việt Nam, hòng biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, qua đó ngăn chặn làn sóng cộng sản vào Đông Dương. Sau hơn 10 năm tiến hành chiến tranh, qua 3 đời tổng thống nhưng vẫn chưa đạt được mục tiêu nào đáng kể, ngược lại, Mỹ ngày càng sa lầy và chính quyền Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Để cứu vãn tình hình, Mỹ hiểu rất rõ, muốn giành chiến thắng quyết định trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, phải làm suy yếu Bắc Việt Nam, vì đây là hậu phương chiến lược, quyết định tới kết cục chiến tranh ở miền Nam. Mỹ cho rằng, biện pháp nhanh nhất, hiệu quả nhất để giải quyết chiến tranh ở miền Nam là dùng sức mạnh quân sự phá hoại triệt để hậu phương miền Bắc.
Thứ hai, đánh phá miền Bắc là hành động nằm trong âm mưu thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”- bước phiêu lưu mới của Mỹ hòng cứu vãn sự thất bại của “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam. Từ sau Phong trào Đồng khởi (năm 1960), quân và dân miền Nam giành quyền làm chủ trên quy mô rộng lớn, chính quyền Ngô Đình Diệm đứng trước nguy cơ sụp đổ. Để cứu vãn thất bại và khích lệ tinh thần chính quyền Sài Gòn, từ giữa năm 1961, Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, liên tiếp đưa nhiều cố vấn và hơn một vạn quân Mỹ vào đàn áp phong trào cách mạng miền Nam, đồng thời thực hiện kế hoạch xâm nhập phá hoại miền Bắc như Kế hoạch “34A” (gồm các hoạt động do thám xâm nhập quấy rối miền Bắc bằng máy bay, tàu biệt kích và thám báo), Kế hoạch “Đê-xô-tô” (dùng tàu của Hạm đội 7 xâm phạm khiêu khích vùng biển miền Bắc để phô trương sức mạnh quân sự của Mỹ và trinh sát hệ thống phòng thủ ven biển của Việt Nam), Kế hoạch “Yang-ki” (dùng máy bay hải quân và không quân mỹ mang phù hiệu Lào để đánh phá lãnh thổ Lào và vùng biên giới phía Tây nước ta).
Mặc dù ra sức chống đỡ, tình thế của Mỹ, ngụy ở miền Nam từ năm 1963 đến đầu năm 1964 ngày càng nguy ngập. Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” có nguy cơ bị phá sản, các hoạt động phá hoại của địch đối với miền Bắc đều bị ta chặn đứng. Trước tình hình đó, Cục Tình báo và Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ cho rằng “cần phải tiến hành các hoạt động ngày càng táo bạo hơn, kể cả việc ném bom các mục tiêu then chốt ở Bắc Việt Nam, đưa bộ binh Mỹ vào Nam Việt Nam và sử dụng lực lượng Mỹ ở mức cần thiết vào các hoạt động chống phá Bắc Việt Nam”(4). Các cố vấn cấp cao của Nhà Trắng cũng tin là: “có thể bóp nghẹt được cuộc cách mạng ở Nam Việt Nam bằng cách cắt đứt nguồn chi viện, tiếp tế từ bên ngoài vào Bắc Việt Nam và từ Bắc Việt vào miền Nam”, và chúng cho rằng: “Bắc Việt Nam rất dễ bị đánh bại bằng bom thông thường”(5). Đầu tháng 6-1964, các cố vấn chủ chốt của Tổng thống Mỹ gặp nhau tại Hô-nô-lu-lu để thảo luận “kế hoạch mới” của Tổng thống. Cuộc họp nhất trí nội dung là một cuộc chiến tranh bằng không quân có hiệu quả của Mỹ chống Bắc Việt Nam sẽ đưa lại cơ hội lớn hoàn thành các mục tiêu của chính quyền Giôn-xơn. Việc ném bom có chọn lọc vào các mục tiêu quân sự ở Bắc Việt Nam, sẽ làm tăng tinh thần người Nam Việt Nam và giúp ủng hộ lập trường của Mỹ ở Việt Nam. Rõ ràng, “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” chỉ là cái cớ. Và để tạo cớ, giới diều hâu Mỹ lúc đó đã chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng. Thực tế cho thấy, ngay cả khi Quốc hội Mỹ chưa thông qua nghị quyết cho phép Tổng thống Mỹ ném bom Bắc Việt Nam, Giôn-xơn đã ra lệnh phóng ra “Mũi tên xuyên”!
Thứ ba, sở dĩ Mỹ phải sử dụng chiến thuật “leo thang” trong đánh phá miền Bắc vì họ vẫn phải thăm dò dư luận, thăm dò sự phản ứng của thế giới, nhất là Liên Xô và Trung Quốc. Ở trong nước, nhân dân tiến bộ Mỹ đã không đồng tình với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, càng không đồng tình với những hành động mà Hải quân Mỹ gây ra ở Vịnh Bắc Bộ trước ngày 05-8, “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” thực chất là hành động lừa dối nhân dân, lừa dối Quốc hội Mỹ để khi sự đã rồi, chính quyền Giôn-xơn có toàn quyền hành động. Chính những người tham gia vào việc ngụy tạo sự kiện này cũng đã nghi ngờ về quyết định của giới cầm quyền Mỹ lúc đó. Ngay trong ngày 04-8-1964, Tướng Hen-rích - chỉ huy cuộc tuần tra, đã điện về Lầu Năm Góc: “việc xem xét lại hành động cho thấy rằng, các tiếp xúc ghi được về các ngư lôi đã được bắn tỏ ra đáng nghi ngờ. Đề nghị đánh giá đầy đủ trước khi có hành động tiếp theo”(6). Báo cáo của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương hôm đó cũng nhận định: “vẫn còn mơ hồ, không biết một cuộc tiến công vào các tàu khu trục đã thực sự xảy ra hay chưa?”. Như thế, ngay các quân nhân Mỹ, thậm chí đó là những sĩ quan cao cấp của Quân đội Hoa Kỳ, cả những người trong cuộc, cũng bị đánh lừa!
Đối với quốc tế, Mỹ thừa biết rằng cả Liên Xô và Trung Quốc, dù mức độ và cách thức có khác nhau, đang là đồng minh của Bắc Việt Nam. Mỹ không thể phớt lờ vai trò của các nước trên thế giới, nhất là Liên Xô và Trung Quốc. Trong thời điểm này, Mỹ đặc biệt quan tâm tới thái độ của Trung Quốc, một nước lớn ngay sát vách với Việt Nam. Việc Mỹ ném bom miền Bắc là hành động lợi dụng sự rạn nứt trong quan hệ Xô - Trung… Mặc dù có những điều kiện như vậy, Mỹ vẫn phải lựa chọn chiến thuật leo thang, vừa đánh vừa dò. Phải chăng, đó cũng chính là bài học mà Mỹ đã rút ra được trong cuộc chiến tranh Triều Tiên trước đó?
Sau “tiếng sấm” Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”, một loạt các nước thuộc địa từ Á, Phi, Mỹ La-tinh đã đứng lên đấu tranh giành độc lập. Hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc nhanh chóng bị tan vỡ. Nhiều dân tộc vừa giành được độc lập đã có xu hướng, hoặc tuyên bố đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc đưa quân Mỹ vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam, “đưa Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá” được Mỹ coi là một biện pháp nhằm “răn đe” phong trào giải phóng dân tộc và ngăn chặn xu hướng đi theo con đường xã hội chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới.
Hội nghị Chính trị đặc biệt và bài học đoàn kết
Đánh phá hậu phương miền Bắc, đế quốc Mỹ tin là sẽ bẻ gãy được ý chí và quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của nhân dân Việt Nam. Mỹ đã không hiểu rằng, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc là khát vọng cháy bỏng của Đảng, Hồ Chí Minh và nhân dân hai miền Nam - Bắc. Mặt khác, Đảng Lao động Việt Nam và Hồ Chí Minh nắm vững và hiểu rõ dã tâm, âm mưu chiến lược của Mỹ, đã chủ động chuẩn bị đối phó với mọi tình huống.
Ngày 27-3-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Hội nghị Chính trị đặc biệt - một hội nghị được coi là “Hội nghị Diên Hồng” trong thời đại mới. Tại Hội nghị, Người xác định: nhiệm vụ của miền Bắc là phải dành nhiều sức người, sức của tăng viện cho miền Nam, đồng thời gấp rút, tăng cường tiềm lực quốc phòng, sẵn sàng chiến đấu. Người kêu gọi: “Mỗi người chúng ta phải làm việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt”. Có thể thấy, nhiệm vụ “giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc” là nguyện vọng thiêng liêng của toàn thể dân tộc Việt Nam, là đường lối lãnh đạo xuyên suốt và nhất quán của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Không chỉ nêu cao quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, với tiềm lực của một hậu phương xã hội chủ nghĩa được xây dựng sau 10 năm, khi mà “đất nước, xã hội, con người đều đổi mới”, chúng ta đã tăng cường sức mạnh quốc phòng, sức mạnh của lực lượng vũ trang. Để chi viện miền Nam, với tầm nhìn chiến lược, nhãn quan chính trị sắc bén, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây dựng hệ thống tuyến đường chiến lược trên dãy Trường Sơn; đồng thời mở tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển. Có thể nói, sự chi viện sức người, sức của từ miền Bắc cho miền Nam bằng 2 tuyến vận tải chiến lược giữ vai trò quyết định cho thắng lợi của cách mạng miền Nam.
Đảng, nhân dân và quân đội ta đã đề cao cảnh giác, chủ động và tích cực xây dựng lực lượng, thế trận bảo vệ miền Bắc. Công cuộc chuẩn bị chiến đấu, sẵn sàng đánh trả hành động địch tập kích bằng không quân Mỹ được xúc tiến mạnh mẽ từ những năm 60 của thế kỷ XX, đặc biệt là từ năm 1963. Do đó, về mặt chiến lược, quân và dân ta hoàn toàn ở thế chủ động, không bị bất ngờ trước cuộc đột kích đường không của địch ngày 05-8-1964. Trái lại, chính Mỹ là bên chủ động tấn công lại bị bất ngờ. Bất ngờ về chủ trương chiến lược đã bị lộ tẩy, về thủ đoạn đánh phá bị thất bại. Hơn hết, đó là sự bất ngờ trước ý chí, quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, tinh thần dũng cảm của người Việt Nam; về sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam; về trình độ tổ chức, chỉ huy, về khả năng sẵn sàng chiến đấu và đặc biệt là bất ngờ về thế trận phòng không nhân dân của ta. 8 trong tổng số 64 chiếc, bằng 12% lực lượng máy bay tham gia tiến công bị bắn rơi, 3 chiếc bị thương, một số giặc lái bị chết, 1 tên bị bắt sống là thất bại rất lớn nằm ngoài sự tính toán của giới quân sự Mỹ. Tiếp sau thất bại ngày 05-8-1964, đế quốc Mỹ tiếp tục thất bại trong 2 cuộc chiến tranh phiêu lưu ra miền Bắc với 4.181 máy bay bị rơi.
Trên trường quốc tế, Mỹ bất ngờ khi vấp phải sự phản đối của cả thế giới và chính nhân dân Mỹ. Chính hành động của Mỹ đã tạo nên một làn sóng ủng hộ Việt Nam, chống Mỹ xâm lược trên thế giới và cả trong lòng nước Mỹ.
Gần đây, trước tình hình có nước đang cố tình đẩy mạnh các hành động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, Đảng, Nhà nước, quân đội và toàn dân ta đã hết sức tỉnh táo, nắm chắc ý đồ của họ, nêu cao cảnh giác, tránh mắc mưu khiêu khích để họ lấy đó là cái cớ hợp lý cho hành động sai trái. Nhân dân Việt Nam vốn giàu lòng khoan dung, nhân ái, luôn khát khao được sống trong hòa bình, đã chịu những tổn thất vô cùng to lớn của chiến tranh. Chúng ta đã hết sức kiềm chế, mong muốn giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình.
Tuy nhiên, kiềm chế và nhân nhượng của một dân tộc giàu lòng nhân ái, giàu lòng tự trọng chỉ có thể đến một giới hạn nhất định. Khi mà các biện pháp giải quyết bằng con đường hòa bình do chúng ta kiên trì đưa ra mà đối phương vẫn phớt lờ; khi mà những kẻ ngông cuồng nào đó bất chấp công lý và lẽ phải để ngày càng lấn tới; khi mà chủ quyền của quốc gia dân tộc bị xâm phạm, thì lời kêu gọi “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1946 sẽ lại vang lên ở thế kỷ XXI này, toàn dân tộc Việt Nam nhất định sẽ đoàn kết một lòng, cùng nhau đứng lên dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, kiên quyết chiến đấu giữ vững bờ cõi non sông./.
__________________________
(1) Dẫn theo “Hoạt động của không quân địch trong chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam”, Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân, 1968, tr.2.
(2) Giô-dép A.Am-xtơ “Lời phán quyết về Việt Nam”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, tr. 95-96.
(3) Tài liệu tham khảo, Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, tập 2, Việt Nam TTX phát hành (9-1971), tr.9.
(4) Bị vong lục ngày 22-1-1964 của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ.
(5) Tổng kết chiến đấu và xây dựng của Quân chủng Phòng không - Không quân trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1992, tr.10.
(6) Giô-dép A.Am-xtơ “Lời phán quyết về Việt Nam”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, tr. 88.
Sự thật, ngày 02-8-1964 đã diễn ra cuộc đụng độ khi tàu khu trục Ma-đốc ngang nhiên vi phạm có hệ thống lãnh hải Việt Nam từ Đèo Ngang (Quảng Bình) ra đảo Hòn Mê (Thanh Hóa), có lúc vào sâu cách bờ biển Việt Nam chỉ 6 hải lý (1 hải lý = 1,852km) và đã bị các tàu phóng lôi của Hải quân Việt Nam đánh đuổi tại khu vực phía Đông Hòn Mê. Điều này được dư luận nhiều nước, có cả dư luận Mỹ thừa nhận và kịch liệt lên án hành động xâm phạm trắng trợn đó của Hải quân Mỹ.
Những người Mỹ chủ trương tiến đánh Bắc Việt Nam hiểu rằng, nếu chỉ vin vào cái cớ mà sự dối trá đã bị phơi bày để đánh phá miền Bắc Việt Nam thì “chưa đủ sức thuyết phục” dư luận. Vì vậy, Mỹ phải dựng thêm sự kiện khác rằng: “đêm 04-8-1964, các tàu phóng lôi của Hải quân Việt Nam một lần nữa lại vô cớ tấn công khu trục Ma-đốc và Tơ-nơ gioi của Mỹ đang hoạt động bình thường trên vùng biển quốc tế”(1). Đây là sự bịa đặt còn trắng trợn hơn nữa, bởi hôm đó thời tiết rất xấu, ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ đang có giông bão, hoàn toàn không có một tàu phóng lôi hoặc tàu chiến đấu nào của Việt Nam - lúc đó là những chiến hạm nhỏ bé, hoạt động trong khu vực mà Mỹ rêu rao.
Bất chấp dư luận và lẽ phải, Tổng thống Mỹ vẫn vin vào cớ đó để ngày 05-8-1964 ra lệnh tiến hành chiến dịch “Mũi tên xuyên”, bất ngờ cho 64 lần chiếc máy bay đánh “trả đũa” ồ ạt vào 4 khu vực trên miền Bắc Việt Nam là Cảng Gianh (Quảng Bình), Vinh - Bến Thủy ( Nghệ An), Lạch Trường (Thanh Hóa) và Bãi Cháy (Quảng Ninh) mở đầu cho cuộc chiến tranh phá hoại quy mô lớn vào miền Bắc Việt Nam, đồng thời dùng sự kiện đó để thuyết phục Quốc hội Mỹ thông qua cái gọi là “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ” ngày 07-8-1964. Nghị quyết này trao quyền cho Tổng thống Mỹ “tiến hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc sử dụng lực lượng vũ trang để giúp đỡ bất kỳ quốc gia nào là thành viên hoặc nước bảo trợ của Hiệp ước phòng thủ Đông Nam Á yêu cầu giúp đỡ”(2). Hai đời tổng thống Mỹ là L.Giôn-Xơn và R.Ních-xơn đã viện dẫn vào Nghị quyết sai trái này để biện hộ cho một cuộc chiến phi nghĩa và ngày càng khốc liệt ở Việt Nam. Để rồi, cuộc chiến tranh đó đã cướp đi sinh mạng của hơn 58.000 lính Mỹ và hàng triệu người Việt Nam bị chết hoặc bị ảnh hưởng nặng nề đến nhiều thế hệ.
Sự thật, “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” chỉ là cái cớ do Mỹ cố dựng lên để mở đầu và “hợp lý hóa” cho hành động mở rộng chiến tranh xâm lược. Vậy đâu là nguyên nhân thực sự?
Trước hết, xuất phát từ âm mưu chiến lược của đế quốc Mỹ đối với Việt Nam. Bước sang đầu những năm 50 (thế kỷ XX), cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp ngày càng đi vào ngõ cụt và trở thành gánh nặng cho cả nước Pháp. Chiến tranh càng kéo dài, nước Pháp càng lệ thuộc vào Mỹ. Mặc dù biết rõ hơn ai hết rằng nhận viện trợ Mỹ, Pháp sẽ mất dần quyền kiểm soát Đông Dương, nhưng Pháp không còn cách nào khác. Sự thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ không chỉ là nỗi cay đắng của người Pháp mà còn là sự thất bại của Mỹ. Chiến tranh kết thúc, đế quốc Mỹ coi Hiệp định Giơ-ne-vơ là một “thảm họa”, là “một bước tiến quan trọng của chủ nghĩa cộng sản, có thể dẫn đến việc mất cả Đông Nam Á”(3).
Từ chỗ “bật đèn xanh” cho Pháp quay lại xâm lược Việt Nam (năm 1945), đến chỗ tăng cường viện trợ và sau khi không cứu được Pháp, Mỹ đã hất cẳng Pháp, nhảy vào Đông Dương, dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, đưa cố vấn vào miền Nam, quyết thực hiện mưu đồ chia cắt lâu dài Việt Nam, hòng biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, qua đó ngăn chặn làn sóng cộng sản vào Đông Dương. Sau hơn 10 năm tiến hành chiến tranh, qua 3 đời tổng thống nhưng vẫn chưa đạt được mục tiêu nào đáng kể, ngược lại, Mỹ ngày càng sa lầy và chính quyền Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Để cứu vãn tình hình, Mỹ hiểu rất rõ, muốn giành chiến thắng quyết định trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, phải làm suy yếu Bắc Việt Nam, vì đây là hậu phương chiến lược, quyết định tới kết cục chiến tranh ở miền Nam. Mỹ cho rằng, biện pháp nhanh nhất, hiệu quả nhất để giải quyết chiến tranh ở miền Nam là dùng sức mạnh quân sự phá hoại triệt để hậu phương miền Bắc.
Thứ hai, đánh phá miền Bắc là hành động nằm trong âm mưu thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”- bước phiêu lưu mới của Mỹ hòng cứu vãn sự thất bại của “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam. Từ sau Phong trào Đồng khởi (năm 1960), quân và dân miền Nam giành quyền làm chủ trên quy mô rộng lớn, chính quyền Ngô Đình Diệm đứng trước nguy cơ sụp đổ. Để cứu vãn thất bại và khích lệ tinh thần chính quyền Sài Gòn, từ giữa năm 1961, Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, liên tiếp đưa nhiều cố vấn và hơn một vạn quân Mỹ vào đàn áp phong trào cách mạng miền Nam, đồng thời thực hiện kế hoạch xâm nhập phá hoại miền Bắc như Kế hoạch “34A” (gồm các hoạt động do thám xâm nhập quấy rối miền Bắc bằng máy bay, tàu biệt kích và thám báo), Kế hoạch “Đê-xô-tô” (dùng tàu của Hạm đội 7 xâm phạm khiêu khích vùng biển miền Bắc để phô trương sức mạnh quân sự của Mỹ và trinh sát hệ thống phòng thủ ven biển của Việt Nam), Kế hoạch “Yang-ki” (dùng máy bay hải quân và không quân mỹ mang phù hiệu Lào để đánh phá lãnh thổ Lào và vùng biên giới phía Tây nước ta).
Mặc dù ra sức chống đỡ, tình thế của Mỹ, ngụy ở miền Nam từ năm 1963 đến đầu năm 1964 ngày càng nguy ngập. Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” có nguy cơ bị phá sản, các hoạt động phá hoại của địch đối với miền Bắc đều bị ta chặn đứng. Trước tình hình đó, Cục Tình báo và Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ cho rằng “cần phải tiến hành các hoạt động ngày càng táo bạo hơn, kể cả việc ném bom các mục tiêu then chốt ở Bắc Việt Nam, đưa bộ binh Mỹ vào Nam Việt Nam và sử dụng lực lượng Mỹ ở mức cần thiết vào các hoạt động chống phá Bắc Việt Nam”(4). Các cố vấn cấp cao của Nhà Trắng cũng tin là: “có thể bóp nghẹt được cuộc cách mạng ở Nam Việt Nam bằng cách cắt đứt nguồn chi viện, tiếp tế từ bên ngoài vào Bắc Việt Nam và từ Bắc Việt vào miền Nam”, và chúng cho rằng: “Bắc Việt Nam rất dễ bị đánh bại bằng bom thông thường”(5). Đầu tháng 6-1964, các cố vấn chủ chốt của Tổng thống Mỹ gặp nhau tại Hô-nô-lu-lu để thảo luận “kế hoạch mới” của Tổng thống. Cuộc họp nhất trí nội dung là một cuộc chiến tranh bằng không quân có hiệu quả của Mỹ chống Bắc Việt Nam sẽ đưa lại cơ hội lớn hoàn thành các mục tiêu của chính quyền Giôn-xơn. Việc ném bom có chọn lọc vào các mục tiêu quân sự ở Bắc Việt Nam, sẽ làm tăng tinh thần người Nam Việt Nam và giúp ủng hộ lập trường của Mỹ ở Việt Nam. Rõ ràng, “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” chỉ là cái cớ. Và để tạo cớ, giới diều hâu Mỹ lúc đó đã chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng. Thực tế cho thấy, ngay cả khi Quốc hội Mỹ chưa thông qua nghị quyết cho phép Tổng thống Mỹ ném bom Bắc Việt Nam, Giôn-xơn đã ra lệnh phóng ra “Mũi tên xuyên”!
Thứ ba, sở dĩ Mỹ phải sử dụng chiến thuật “leo thang” trong đánh phá miền Bắc vì họ vẫn phải thăm dò dư luận, thăm dò sự phản ứng của thế giới, nhất là Liên Xô và Trung Quốc. Ở trong nước, nhân dân tiến bộ Mỹ đã không đồng tình với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, càng không đồng tình với những hành động mà Hải quân Mỹ gây ra ở Vịnh Bắc Bộ trước ngày 05-8, “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” thực chất là hành động lừa dối nhân dân, lừa dối Quốc hội Mỹ để khi sự đã rồi, chính quyền Giôn-xơn có toàn quyền hành động. Chính những người tham gia vào việc ngụy tạo sự kiện này cũng đã nghi ngờ về quyết định của giới cầm quyền Mỹ lúc đó. Ngay trong ngày 04-8-1964, Tướng Hen-rích - chỉ huy cuộc tuần tra, đã điện về Lầu Năm Góc: “việc xem xét lại hành động cho thấy rằng, các tiếp xúc ghi được về các ngư lôi đã được bắn tỏ ra đáng nghi ngờ. Đề nghị đánh giá đầy đủ trước khi có hành động tiếp theo”(6). Báo cáo của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương hôm đó cũng nhận định: “vẫn còn mơ hồ, không biết một cuộc tiến công vào các tàu khu trục đã thực sự xảy ra hay chưa?”. Như thế, ngay các quân nhân Mỹ, thậm chí đó là những sĩ quan cao cấp của Quân đội Hoa Kỳ, cả những người trong cuộc, cũng bị đánh lừa!
Đối với quốc tế, Mỹ thừa biết rằng cả Liên Xô và Trung Quốc, dù mức độ và cách thức có khác nhau, đang là đồng minh của Bắc Việt Nam. Mỹ không thể phớt lờ vai trò của các nước trên thế giới, nhất là Liên Xô và Trung Quốc. Trong thời điểm này, Mỹ đặc biệt quan tâm tới thái độ của Trung Quốc, một nước lớn ngay sát vách với Việt Nam. Việc Mỹ ném bom miền Bắc là hành động lợi dụng sự rạn nứt trong quan hệ Xô - Trung… Mặc dù có những điều kiện như vậy, Mỹ vẫn phải lựa chọn chiến thuật leo thang, vừa đánh vừa dò. Phải chăng, đó cũng chính là bài học mà Mỹ đã rút ra được trong cuộc chiến tranh Triều Tiên trước đó?
Sau “tiếng sấm” Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”, một loạt các nước thuộc địa từ Á, Phi, Mỹ La-tinh đã đứng lên đấu tranh giành độc lập. Hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc nhanh chóng bị tan vỡ. Nhiều dân tộc vừa giành được độc lập đã có xu hướng, hoặc tuyên bố đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc đưa quân Mỹ vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam, “đưa Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá” được Mỹ coi là một biện pháp nhằm “răn đe” phong trào giải phóng dân tộc và ngăn chặn xu hướng đi theo con đường xã hội chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới.
Hội nghị Chính trị đặc biệt và bài học đoàn kết
Đánh phá hậu phương miền Bắc, đế quốc Mỹ tin là sẽ bẻ gãy được ý chí và quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của nhân dân Việt Nam. Mỹ đã không hiểu rằng, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc là khát vọng cháy bỏng của Đảng, Hồ Chí Minh và nhân dân hai miền Nam - Bắc. Mặt khác, Đảng Lao động Việt Nam và Hồ Chí Minh nắm vững và hiểu rõ dã tâm, âm mưu chiến lược của Mỹ, đã chủ động chuẩn bị đối phó với mọi tình huống.
Ngày 27-3-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Hội nghị Chính trị đặc biệt - một hội nghị được coi là “Hội nghị Diên Hồng” trong thời đại mới. Tại Hội nghị, Người xác định: nhiệm vụ của miền Bắc là phải dành nhiều sức người, sức của tăng viện cho miền Nam, đồng thời gấp rút, tăng cường tiềm lực quốc phòng, sẵn sàng chiến đấu. Người kêu gọi: “Mỗi người chúng ta phải làm việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt”. Có thể thấy, nhiệm vụ “giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc” là nguyện vọng thiêng liêng của toàn thể dân tộc Việt Nam, là đường lối lãnh đạo xuyên suốt và nhất quán của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Không chỉ nêu cao quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, với tiềm lực của một hậu phương xã hội chủ nghĩa được xây dựng sau 10 năm, khi mà “đất nước, xã hội, con người đều đổi mới”, chúng ta đã tăng cường sức mạnh quốc phòng, sức mạnh của lực lượng vũ trang. Để chi viện miền Nam, với tầm nhìn chiến lược, nhãn quan chính trị sắc bén, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây dựng hệ thống tuyến đường chiến lược trên dãy Trường Sơn; đồng thời mở tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển. Có thể nói, sự chi viện sức người, sức của từ miền Bắc cho miền Nam bằng 2 tuyến vận tải chiến lược giữ vai trò quyết định cho thắng lợi của cách mạng miền Nam.
Đảng, nhân dân và quân đội ta đã đề cao cảnh giác, chủ động và tích cực xây dựng lực lượng, thế trận bảo vệ miền Bắc. Công cuộc chuẩn bị chiến đấu, sẵn sàng đánh trả hành động địch tập kích bằng không quân Mỹ được xúc tiến mạnh mẽ từ những năm 60 của thế kỷ XX, đặc biệt là từ năm 1963. Do đó, về mặt chiến lược, quân và dân ta hoàn toàn ở thế chủ động, không bị bất ngờ trước cuộc đột kích đường không của địch ngày 05-8-1964. Trái lại, chính Mỹ là bên chủ động tấn công lại bị bất ngờ. Bất ngờ về chủ trương chiến lược đã bị lộ tẩy, về thủ đoạn đánh phá bị thất bại. Hơn hết, đó là sự bất ngờ trước ý chí, quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, tinh thần dũng cảm của người Việt Nam; về sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam; về trình độ tổ chức, chỉ huy, về khả năng sẵn sàng chiến đấu và đặc biệt là bất ngờ về thế trận phòng không nhân dân của ta. 8 trong tổng số 64 chiếc, bằng 12% lực lượng máy bay tham gia tiến công bị bắn rơi, 3 chiếc bị thương, một số giặc lái bị chết, 1 tên bị bắt sống là thất bại rất lớn nằm ngoài sự tính toán của giới quân sự Mỹ. Tiếp sau thất bại ngày 05-8-1964, đế quốc Mỹ tiếp tục thất bại trong 2 cuộc chiến tranh phiêu lưu ra miền Bắc với 4.181 máy bay bị rơi.
Trên trường quốc tế, Mỹ bất ngờ khi vấp phải sự phản đối của cả thế giới và chính nhân dân Mỹ. Chính hành động của Mỹ đã tạo nên một làn sóng ủng hộ Việt Nam, chống Mỹ xâm lược trên thế giới và cả trong lòng nước Mỹ.
***
Gần đây, trước tình hình có nước đang cố tình đẩy mạnh các hành động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, Đảng, Nhà nước, quân đội và toàn dân ta đã hết sức tỉnh táo, nắm chắc ý đồ của họ, nêu cao cảnh giác, tránh mắc mưu khiêu khích để họ lấy đó là cái cớ hợp lý cho hành động sai trái. Nhân dân Việt Nam vốn giàu lòng khoan dung, nhân ái, luôn khát khao được sống trong hòa bình, đã chịu những tổn thất vô cùng to lớn của chiến tranh. Chúng ta đã hết sức kiềm chế, mong muốn giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình.
Tuy nhiên, kiềm chế và nhân nhượng của một dân tộc giàu lòng nhân ái, giàu lòng tự trọng chỉ có thể đến một giới hạn nhất định. Khi mà các biện pháp giải quyết bằng con đường hòa bình do chúng ta kiên trì đưa ra mà đối phương vẫn phớt lờ; khi mà những kẻ ngông cuồng nào đó bất chấp công lý và lẽ phải để ngày càng lấn tới; khi mà chủ quyền của quốc gia dân tộc bị xâm phạm, thì lời kêu gọi “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1946 sẽ lại vang lên ở thế kỷ XXI này, toàn dân tộc Việt Nam nhất định sẽ đoàn kết một lòng, cùng nhau đứng lên dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, kiên quyết chiến đấu giữ vững bờ cõi non sông./.
__________________________
(1) Dẫn theo “Hoạt động của không quân địch trong chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam”, Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân, 1968, tr.2.
(2) Giô-dép A.Am-xtơ “Lời phán quyết về Việt Nam”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, tr. 95-96.
(3) Tài liệu tham khảo, Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, tập 2, Việt Nam TTX phát hành (9-1971), tr.9.
(4) Bị vong lục ngày 22-1-1964 của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ.
(5) Tổng kết chiến đấu và xây dựng của Quân chủng Phòng không - Không quân trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1992, tr.10.
(6) Giô-dép A.Am-xtơ “Lời phán quyết về Việt Nam”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, tr. 88.
Bảo đảm quyền bình đẳng giới ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay  (04/08/2014)
Xây dựng chiến lược quốc gia tổng thể về sức khỏe tâm thần  (04/08/2014)
Chia sẻ thông tin, kinh nghiệm về các vấn đề lao động di cư  (04/08/2014)
Chuẩn bị triển khai dự án cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư  (04/08/2014)
Việt Nam luôn mong muốn củng cố quan hệ hợp tác với Hoa Kỳ  (04/08/2014)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm