TCCS - Giải quyết việc làm cho lao động dư thừa trong nông nghiệp, nông thôn, khi ruộng đất canh tác ngày càng thu hẹp lại, thực sự là một thách thức lớn của toàn xã hội. Bài toán này cần được giải từ nhiều góc độ, trong đó xuất khẩu lao động và sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động là hướng đi tích cực cần được quan tâm tháo gỡ.

Lao động nông thôn - nguồn xuất khẩu lao động dồi dào

Những năm gần đây, cơ cấu kinh tế nước ta đang chuyển dịch theo hướng tích cực, chất lượng lao động không ngừng được cải thiện, nhiều ngành nghề mới xuất hiện, tỷ trọng công nghiệp trong GDP từng bước nâng lên (từ 36,7% năm 2000 lên 40% vào năm 2010). Mỗi năm tạo được việc làm cho khoảng 1,57 triệu lao động, đưa nước ta thoát khỏi nhóm nước nghèo. Tuy nhiên, lực lượng lao động trong nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ cao, tính đến thời điểm 31-12-2009 có 40.549.673 lao động trong tổng số 56.512.803 lao động cả nước. Đảng và Nhà nước đã đặt ra mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp: tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP; tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 57,33% tương ứng với 32,1 triệu lao động trong lao động xã hội. Nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay là đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa đồng thời với hiện đại hóa, trọng tâm là ngành nông nghiệp. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có được một nguồn nhân lực chất lượng, nhất là nguồn nhân lực có kỹ năng, tay nghề ở khu vực nông nghiệp, vì đó là tiềm năng đặc biệt trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và ổn định xã hội.

Số liệu điều tra lao động việc làm những năm qua cho thấy, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động, nhất là lao động ở nông thôn còn quá thấp: Tỷ lệ lao động có chuyên môn chỉ đạt 30% (trong khi tỷ lệ này ở các nước trong khu vực là 45% - 55%); tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 18,7% (bình quân chung của cả nước 25%). Cơ cấu đào tạo và sử dụng lao động còn nhiều bất hợp lý; nhiều ngành nghề cần lại không được đào tạo hoặc làm việc trái với ngành nghề... đang là một vấn đề nan giải.

Những mô hình hay về phát triển nghề ở nông thôn

Thông qua thị trường tiếp nhận lao động, ngành nghề được làm việc mà người lao động có điều kiện học hỏi, khi trở về nước sau thời gian làm việc ở nước ngoài, nhiều người lao động đã phát huy được vốn kiến thức tích lũy được để lập nghiệp tại quê hương thành công.

Ý tưởng của việc đi lao động tại Đài Loan của chị Nguyễn Thị Hương, tỉnh Thái Nguyên, để có cơ hội học kinh nghiệm sản xuất và chế biến chè sạch là một điển hình. Từ một nông dân với quyết tâm học hỏi sản xuất chế biến chè trong thời gian đi xuất khẩu lao động, khi trở về quê hương chị đã khởi nghiệp thành lập Công ty Vạn Tài, xây dựng được vùng nguyên liệu chè hàng chục héc-ta, tạo ra hai thương hiệu chè Ô Long và Hồng Trà, đồng thời tạo công ăn việc làm cho hơn 50 lao động khác.

Trường hợp chị Nguyễn Thị Thủy, Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Xuất nhập khẩu Bền Vững, sản xuất đũa xuất khẩu. Tham gia xuất khẩu lao động tại Đài Loan năm 2002, được tiếp cận với cơ sở sản xuất đũa trong quá trình làm việc, chị Thủy chịu khó tranh thủ học nghề, tìm hiểu thiết bị. Hết thời hạn lao động ở nước ngoài, trở về quê, chị bắt tay vào thành lập doanh nghiệp sản xuất đũa xuất khẩu. Từ khi thành lập (năm 2006) tới nay, công ty đã xuất hàng trăm tấn đũa với doanh số hàng chục tỉ đồng, tạo việc làm thường xuyên cho khoảng 50 lao động, chủ yếu là các gia đình chính sách.

Nhiều năm qua, những làng nghề cá ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình đã xuất khẩu lao động thành từng nhóm, đoàn sang thị trường Đài Loan và Hàn Quốc tham gia lao động với nghề đánh bắt hải sản xa bờ.

Gần đây, Công ty Oleco thỏa thuận với đối tác I-xra-en để xuất khẩu lao động nông nghiệp sang I-xra-en dưới dạng tu nghiệp sinh là nông dân, thời hạn tu nghiệp 11 tháng, mỗi tuần tu nghiệp sinh có 5 ngày làm việc thực tế và 1 ngày học về kiến thức sản xuất công nghệ nông nghiệp. Mức trợ cấp phía I-xra-en trả cho tu nghiệp sinh sau khi trừ các khoản ăn, ở, học hành, chi phí đi lại trong 11 tháng còn lại ít nhất 70 triệu đồng Việt Nam. Nhưng cái được lớn hơn là người lao động sẽ học được kinh nghiệm, phương pháp sản xuất kỹ thuật cao của I-xra-en - quốc gia hàng đầu về khoa học - kỹ thuật nông nghiệp.

Ngoài ra, nhiều trường hợp người lao động ở các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc về nước được nhận vào làm việc tại các doanh nghiệp ngay. Bà Lê Thị Thanh Hương, Giám đốc Công ty Tocontap Saigon, cho biết: “Sau khi đi tu nghiệp ngành may ở Nhật Bản trở về, phần đông các em đều trưởng thành về nghề nghiệp, tích lũy được kiến thức, nâng cao trình độ kỹ thuật lẫn kỹ năng thực hành nghề. Vì thế, công ty tin tưởng, bố trí các em vào làm việc ở các vị trí quản lý”. Các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc tại Việt Nam sẵn sàng tiếp nhận những lao động có chuyên môn phù hợp đã từng làm việc ở nước họ khi hết hạn trở về Việt Nam. Một số doanh nghiệp trong nước (các ngành đóng tàu, xây dựng, xi-măng,...) cũng đang có nhu cầu lớn lao động có kỹ năng trong chuyên môn. Đây là một xu hướng thích hợp để chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các khu vực kinh tế khác.

Những định hướng sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động

Xuất khẩu lao động đang được coi là ngành kinh tế quan trọng và mang tính chiến lược của Việt Nam, nhất là đối với xu hướng phát triển kinh tế khu vực nông thôn hiện nay. Tuy nhiên, để sử dụng hiệu quả nguồn lao động này, cần định hướng nguồn nhân lực sau khi xuất khẩu lao động trở về, nguồn nhân lực ấy phải đáp ứng được nhu cầu của quá trình hiện đại hóa nông nghiệp, phục vụ công nghiệp hóa và thích ứng với đòi hỏi trong cam kết lộ trình hội nhập quốc tế. Vì vậy, chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động nên căn cứ các định hướng sau:

Thứ nhất, chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động phải được đặt trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết công ăn việc làm cho người có khả năng lao động nhưng qua đó cũng định hướng được quá trình dịch chuyển cơ cấu ngành kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, thu hút FDI... Về định hướng, trước hết phải xác định cơ cấu, ngành nghề trong các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ tại các khu kinh tế trọng điểm cũng như các khu kinh tế địa phương trong từng thời kỳ, đặc biệt là dự báo các dự án thu hút đầu tư nước ngoài, trong đó có những dự báo về các đối tượng nguồn nhân lực cần có theo kế hoạch sử dụng.

Thứ hai, chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động phải phát huy các giá trị lao động truyền thống trong hội nhập, phác thảo sự hợp tác lao động theo làng nghề, ngành nghề. Đây chính là cơ hội giúp những người lao động xuất khẩu có cơ hội lập nghiệp cho bản thân mình hoặc gia đình mình theo nghề truyền thống của gia đình, địa phương. Trong định hướng này cần nghiên cứu, xem xét yếu tố xuất khẩu lao động thời vụ, nhất là lao động chế biến thủy sản, nông sản ở các thị trường có thiết bị, chuyên môn, kỹ thuật không quá tinh xảo và thao tác cũng không quá khắt khe, như vậy sẽ củng cố những giá trị của ngành nghề truyền thống nhưng phát triển vững chắc và hiện đại.

Thứ ba, có kế hoạch cho đội ngũ lao động xuất khẩu, hướng tới những nhu cầu nguồn nhân lực phát triển kinh tế đất nước trong từng thời kỳ. Nhà nước cần có chương trình cho người lao động, tu nghiệp sinh, thực tập sinh đi làm việc ở các nước phát triển với những công việc được định hướng theo kế hoạch. Những người được tuyển chọn đi lao động ngoài nước không nên là lao động giản đơn mà là lao động có trình độ học vấn nhất định, đã qua đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, ngành nghề trong nước trước khi xuất khẩu (semi-skilled). Chú trọng đến các đối tác sử dụng lao động để quyền lợi người lao động được bảo vệ, thông qua đó đội ngũ này sẽ lĩnh hội được một giá trị mới về kỹ năng chuyên môn, tác phong làm việc công nghiệp, thích ứng với nền công nghiệp hiện đại. Mặt khác, theo dự báo về kế hoạch xuất khẩu lao động, Nhà nước cũng có dự báo nhu cầu việc làm trong nước cho các đối tượng lao động này để sau xuất khẩu lao động, các đối tượng có thể tham gia vào việc làm cho từng vị trí, ngành nghề, khu vực tại quê hương.

Thứ tư, cần có chính sách hỗ trợ đào tạo các ngành nghề trọng tâm cho các tập đoàn kinh tế, tổng công ty... đang hoạt động xuất khẩu lao động có khả năng phát triển cao, giúp các đơn vị này xác lập cơ sở đào tạo ngành nghề cho xã hội phục vụ xuất khẩu lao động và bản thân họ cần có những cam kết đối với người lao động sau khi trở về.

Trong nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế sâu rộng, rất cần có một bộ phận quản lý chung để khai thác, quản lý và sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động.

Thứ năm, chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động phải có lộ trình và bước đi phù hợp ưu tiên, trước hết là tại các vùng kinh tế chậm phát triển của đất nước để đào tạo nguồn nhân lực theo hướng các ngành nghề truyền thống phục vụ kinh tế hộ, kinh tế trang trại nhằm khơi dậy sự phát triển kinh tế, văn hóa tại các vùng sâu, vùng xa. Các chính sách này phải đồng bộ và gắn kết trong khi tổ chức thực hiện.

Năm 2009, có 75.000 lao động ký hợp đồng chính thức đi làm việc ở nước ngoài, các thị trường truyền thống, mang lại hiệu quả cao về kinh tế và nghề nghiệp như: Đài Loan 21.667 lao động, Hàn Quốc 7.578 lao động, Nhật Bản 5.456 tu nghiệp sinh viên và lao động, Li-bi 5.241 lao động, UAE 4.733 lao động, Ma-lai-xi-a 2.792 lao động.

Thứ sáu,
Nhà nước tiếp tục đổi mới chính sách hỗ trợ tạo việc làm qua các chương trình hằng năm, trong đó có chính sách hỗ trợ như thanh niên lập nghiệp, đào tạo doanh nghiệp, vay vốn ưu đãi,... nhất là chính sách hỗ trợ về bồi dưỡng, đào tạo lại nghề nghiệp. Ví dụ như sự phối hợp giữa doanh nghiệp sử dụng lao động sau xuất khẩu lao động và doanh nghiệp xuất khẩu lao động trợ giúp người lao động đào tạo lại theo đơn hàng việc làm hoặc tham gia học tập tạo nghề mới. Những hạng mục bồi dưỡng, đào tạo phải thực sự thiết thực, đúng đối tượng, nhất là sử dụng trong các tập đoàn, tổ chức sản xuất mà lao động thực hiện theo nhóm (đóng tàu, xây dựng, lắp ráp điện tử...), như vậy mới phù hợp với chuyên môn, ngành nghề trong điều kiện cụ thể của nước ta.

Định hướng chiến lược về sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu trong giai đoạn đầu của lộ trình hội nhập quốc tế, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng lao động khu vực nông thôn là yêu cầu cần thiết để xác lập bức tranh toàn cảnh về khâu đột phá nguồn nhân lực có kỹ năng, nghề nghiệp, có khả năng thích ứng linh hoạt với sự thay đổi của công nghệ tiên tiến và nhu cầu đòi hỏi của thị trường lao động chất lượng, trong khu vực nông thôn. Bảo đảm hệ thống việc làm phát triển bền vững theo hướng chuyển dịch cơ cấu thích hợp, tạo động lực cho nền kinh tế nước ta phát triển mạnh và bền vững./.