Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến công tác đào tạo đội ngũ cán bộ lý luận của Đảng
TCCS - Trong hơn 30 năm đổi mới chúng ta đã đào tạo được đội ngũ cán bộ lý luận khá đông đảo, có phẩm chất chính trị và trình độ chuyên môn, góp phần tham gia giải quyết nhiều vấn đề lý luận đặt ra từ thực tiễn phát triển đất nước. Tuy nhiên, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lý luận vẫn còn chậm được đổi mới, chưa gắn chặt giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với quy hoạch và theo chức danh. Để nâng cao chất lượng công tác đào tạo, rất cần có đánh giá đầy đủ các nhân tố tác động đến quá trình đào tạo đội ngũ cán bộ lý luận.
1- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là nhiệm vụ then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Trong đội ngũ cán bộ, cán bộ lý luận, nhất là cán bộ chuyên gia đầu ngành có vị trị đặc biệt quan trọng. Tính quan trọng này xuất phát từ chính vai trò của lý luận trong soi đường cho thực tiễn. V.I. Lê-nin đã chỉ rõ: Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng; Chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong.
Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng trong tiến trình cách mạng. Trước hết, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lý luận chính là nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các nhiệm vụ nghiên cứu, giáo dục và phát triển lý luận. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, cùng với yêu cầu nâng cao chất lượng công việc, sự phát triển của khoa học - công nghệ cũng như sự biến động của tình hình, đòi hỏi mỗi người cán bộ phải hoàn thiện bản thân, nâng cao lý luận chính trị, cập nhật tri thức mới để đáp ứng yêu cầu công việc, từ đó hoàn thành tốt các nhiệm vụ đặt ra với chính mình cũng như với tổ chức. Thứ hai, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính là phương cách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo ra những chuyên gia đầu ngành. Nguồn nhân lực chất lượng tốt chính là điều kiện đầu tiên để giải quyết những vấn đề lý luận đặt ra trong quá trình phát triển của thực tiễn sinh động. Thứ ba, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ góp phần tạo ra số lượng, chất lượng và cơ cấu cán bộ hợp lý, đáp ứng yêu cầu quy hoạch, phát triển đội ngũ cán bộ trong tiến trình cách mạng, từ đó có kế hoạch sử dụng hiệu quả hơn. Thứ tư, chính thông qua quá trình đào tạo để có cơ sở đánh giá, sắp xếp sử dụng cán bộ hợp lý. Những cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng sẽ vận dụng các kiến thức có được vào thực tiễn công việc, nâng cao chất lượng công việc, đóng góp hiệu quả hoạt động của tổ chức. Đó chính là cơ sở phát hiện những cán bộ có triển vọng phát triển, phù hợp với hoạt động lý luận. Thứ năm, nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên là việc làm cần thiết để chống những biểu hiện suy thoái, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã nêu. Bởi lẽ, thực tế tồn tại những hạn chế, yếu kém, bất cập trong đào tạo lý luận chính trị hiện nay, như một bộ phận cán bộ, đảng viên ngại học, thậm chí là lười học chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc đào tạo và đưa cán bộ vào thực tế công việc (tức là sử dụng cán bộ) không chỉ nâng cao trình độ chuyên môn, mà còn nâng cao nhận thức của cán bộ về sự cần thiết học tập, bồi dưỡng, qua đó khắc phục tâm lý ngại học, nhất là ngại học lý luận chính trị.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng, lý luận, Đảng ta luôn luôn quan tâm chú trọng đến công tác này, đã ban hành những chỉ thị, nghị quyết khẳng định vai trò của công tác tư tưởng, lý luận trong sự nghiệp cách mạng, tạo điều kiện cho công tác này được tiến hành một cách có hiệu quả, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX “Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X “Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”, các nghị quyết Đại hội XI và Đại hội XII đều nhấn mạnh sự cần thiết, vai trò của công tác lý luận và cần có sự đầu tư, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận...
Để tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, đòi hỏi cần có đội ngũ cán bộ chất lượng làm công tác lý luận của Đảng. Muốn vậy, phải đào tạo đội ngũ cán bộ lý luận vừa có trình độ chuyên môn, vừa có phẩm chất chính trị vững vàng. Ngay trong thời kỳ đầu cách mạng, việc huấn luyện lý luận, đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ lý luận luôn được Đảng và Bác Hồ quan tâm. Bác đã từng nói: phải huấn luyện cán bộ và hiểu biết cán bộ, khéo dùng cán bộ.
Đào tạo cán bộ, nhất là cán bộ lý luận, là quá trình làm biến đổi hành vi cán bộ một cách chủ ý, có hệ thống thông qua việc học tập. Đào tạo không chỉ cung cấp kiến thức chuyên môn, mà còn nâng cao phẩm chất chính trị cho người học. Việc nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn theo hướng đáp ứng các yêu cầu của công việc trong tương lai mà người học sẽ đảm nhận. Đây chính là quá trình tương tác giữa người truyền thụ kiến thức và người tiếp nhận kiến thức thông qua môi trường đào tạo. Thông thường một quy trình đào tạo bao gồm các thành tố cơ bản, như xác định nhu cầu đào tạo; lập kế hoạch đào tạo; thực hiện kế hoạch đào tạo; đánh giá hoạt động đào tạo. Như vậy kết quả của quá trình đào tạo sẽ phụ thuộc vào: 1- Quan điểm, chủ trương đào tạo của các cấp, nhất là cấp cao; 2- Cơ quan nhân sự phải xác định được nhu cầu đào tạo; 3- Người được đào tạo (đầu vào, ý thức học tập...); 4- Năng lực, trình độ người thực hiện nhiệm vụ đào tạo (giảng viên); 5- Nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo; 6- Chế độ chính sách, nguồn lực và điều kiện đào tạo.
Tác động đến quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lý luận ngoài những yếu tố gắn liền với bản thân quy trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, thì chính quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cũng như quá trình hội nhập quốc tế trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay đặt ra những yêu cầu và tác động đến quá trình đào tạo, bồi dưỡng. Nói cách khác, để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hiệu quả không thể không tính đến bối cảnh chung hiện nay. Tuy nhiên, phạm vi bài viết này chỉ tập trung đề cập đến các nhân tố gắn liền với quy trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
2- Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới công tác đào tạo, trong đó có thể nêu một số nhân tố cơ bản như sau:
Thứ nhất, chủ trương, chính sách về đào tạo cán bộ lý luận các cấp. Đào tạo hay không và đào tạo khi nào là xuất phát từ quan điểm, chủ trương của các cấp quản lý cán bộ, nhất là ở cấp cao trên cơ sở phân tích yêu cầu đặt ra với đội ngũ cán bộ. Điều khẳng định là, ngay từ khi ra đời đến nay, Đảng ta đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ. Bác Hồ đã từng nói: “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”. Chính vì vậy Đảng cần đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Qua các thời kỳ, Đảng ta thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác đào tạo cán bộ lý luận. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chị thị và chính sách về công tác tư tưởng - lý luận, tạo điều kiện và thúc đẩy công tác đào tạo cán bộ lý luận.
Tuy nhiên do điều kiện phát triển đất nước qua các thời kỳ, không phải lúc nào chúng ta cũng có thể tập trung, dành các điều kiện thuận lợi nhất cho công tác đào tạo cán bộ lý luận. Chính vì vậy có tình trạng hẫng hụt cán bộ lý luận, đội ngũ cán bộ lý luận không mạnh, còn ít chuyên gia lý luận đầu ngành trên các lĩnh vực như nhận định trong Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 09-10-2013, của Bộ Chính trị khóa XI “Về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030”.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ lý luận hiện nay còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, nhất là về chuyên môn, nghiệp vụ. Lòng nhiệt tình, sự say mê nghiên cứu bị chi phối bởi nhiều nhân tố, nhất là sự tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đội ngũ cán bộ lý luận bị hẫng hụt, tiềm lực khoa học mỏng, hầu như chưa có cán bộ đầu đàn tầm cỡ quốc tế. Thực tế này đặt ra yêu cầu cần chú ý đầu tư, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận. Quan điểm, chủ trương của Đảng đã rõ, được xác định trong các nghị quyết, vấn đề là cần có hệ chính sách hợp lý và sự quan tâm của cán bộ lãnh đạo các cấp để thực hiện cho được, có chất lượng trong đào tạo đội ngũ cán bộ lý luận.
Thứ hai, xác định nhu cầu đào tạo. Đây là bước đầu tiên trong quy trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung, cán bộ lý luận nói riêng. Để làm được việc này đòi hỏi phải xác định được yêu cầu về số lượng và kiến thức, kỹ năng cần thiết cho các vị trí công việc. Về thực chất, đây là những đòi hỏi về chất lượng và số lượng cũng như cơ cấu nguồn nhân lực cho giai đoạn phát triển của mỗi tổ chức cũng như của toàn hệ thống. Cần thiết phải tiến hành điều tra khảo sát, đánh giá cụ thể, làm rõ thực trạng đội ngũ cán bộ hiện có, từ đó xác định rõ kiến thức, kỹ năng cần bổ sung. Đây chính là cơ sở cho xác định quy mô, nội dung chương trình và phương pháp đào tạo. Nếu xác định chuẩn nhu cầu sẽ tác động tích cực đến quá trình lập kế hoạch và thực hiện đào tạo có kết quả, chất lượng đáp ứng yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ cán bộ lý luận. Ngược lại, sẽ không tạo ra đủ nguồn lực chất lượng cần thiết, hoặc không phù hợp về cơ cấu, dẫn đến tình trạng vừa thừa, vừa thiếu, lãng phí nguồn lực xã hội.
Trong những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm, đầu tư cơ sở vật chất và tài chính cho công tác đào tạo cán bộ lý luận. Các cơ sở đào tạo cán bộ lý luận cũng đã phối hợp với các đơn vị cơ chức năng sử dụng và quản lý đội ngũ cán bộ lý luận, khảo sát đánh giá nhu cầu, và thực hiện đào tạo được một đội ngũ cán bộ lý luận đông đảo, phong phú, góp phần quan trọng vào việc giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển lý luận đặt ra. Tuy nhiên, thực tế việc xác định nhu cầu đào tạo cán bộ lý luận vẫn còn không ít bất cập. Theo đánh giá tổng kết của Viện Đào tạo, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch vẫn còn những bất cập. Nhìn chung, tính chất “tầm nhìn chiến lược” chưa thể hiện rõ, dẫn đến tình trạng chưa cân xứng giữa số lượng và chất lượng đào tạo (số lượng tăng nhưng chất lượng không tăng tương ứng). Việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chưa phản ánh sát nhu cầu thực tế của các địa phương, đơn vị sử dụng cán bộ. Vì thế, mặc dù việc phân bổ chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng của Ban Tổ chức Trung ương cho hoạt động bồi dưỡng trình độ cao cấp lý luận chính trị - hành chính thời gian qua đã có điều chỉnh nhưng vẫn chưa thực sự phù hợp với nhu cầu của các địa phương, cũng như khả năng đáp ứng của các đơn vị thuộc hệ thống học viện, nhà trường tham gia đào tạo cán bộ lý luận.
Theo báo cáo “Đánh giá kết quả đào tạo, bồi dưỡng ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh giai đoạn 2005 - 2012”, có tới gần 1/3 số người được hỏi cho rằng mức độ đáp ứng về số lượng như vậy là “quá ít” so với nhu cầu của công tác cán bộ trên cả nước (30,4%) và ở địa phương (32,7%). Ý kiến của nhiều cán bộ lãnh đạo chủ chốt, phụ trách công tác nhân sự của các địa phương (ban tổ chức tỉnh ủy) cũng cho thấy còn có khoảng cách khá lớn giữa nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các địa phương với thực tế đáp ứng của hệ thống học viện, nhà trường trong thời gian qua(1).
Bên cạnh số lượng đào tạo, trong xác định nhu cầu đào tạo cán bộ lý luận cũng cần được cụ thể hóa về cơ cấu, song thực tế cũng chưa tiến hành được chi tiết. Chính vì vậy dẫn đến tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ lý luận, do cơ cấu các chuyên ngành đào tạo chưa hợp lý. Xác định đúng nhu cầu đào tạo cũng như cơ cấu đào tạo sẽ tạo điều kiện cho công tác tuyển chọn đầu vào và xác định cơ cấu, quy mô đào tạo hợp lý, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ lý luận, ngược lại, công tác đào tạo sẽ kém hiệu quả.
Thứ ba, về nguồn và chất lượng đầu vào cho các chương trình đào tạo cán bộ lý luận. Đây cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả đầu ra. Tuyển dụng được cán bộ học đúng ngành, chuyên ngành sẽ giúp cho việc bố trí sử dụng cán bộ dễ dàng và hiệu quả hơn; việc đánh giá năng lực của cán bộ cũng sẽ sát với thực tế hơn. Nếu đội ngũ cán bộ được tuyển dụng hoặc được luân chuyển không sát với yêu cầu công việc thì sẽ là một bất lợi cho đơn vị sử dụng, vì mất thêm thời gian đào tạo lại, mà yêu cầu công việc thì không chờ đợi.
Nguồn và chất lượng đầu vào trong đào tạo cán bộ lý luận còn có ý nghĩa quan trọng hơn so với nguồn đầu vào trong đào tạo cán bộ công chức nói chung, do xuất phát từ yêu cầu đặc thù của loại hình cán bộ lý luận. Đội ngũ này đòi hỏi không chỉ yêu nghề mà còn phải có tư duy, lập luận sáng tạo. Việc lựa chọn đúng hay không sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược, kế hoạch đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận; ảnh hưởng đến nội dung chương trình đào tạo, thời gian đào tạo, kinh phí đào tạo..., cũng có nghĩa ảnh hưởng đến quy trình và chất lượng đào tạo.
Sự tác động của nguồn đầu vào còn gắn liền với ý thức và năng lực phấn đấu tự học của đội ngũ học viên. Một khi học viên xác định rõ được ý thức phấn đấu học tập và đề cao tự nghiên cứu sẽ tác động rất lớn đến kết quả học tập. Ngược lại, nếu đi học chỉ là “tráng men”, để có đủ bằng cấp theo quy định, chắc chắn chất lượng học tập sẽ không cao. Ý thức và năng lực tự học gắn liền với mỗi con người, đương nhiên nó cũng chịu tác động từ hoàn cảnh. Nếu học viên nhận thức được sự cần thiết phải học tập do yêu cầu công việc đòi hỏi, đồng thời nhận được sự khuyến khích động viên của cơ quan sử dụng cán bộ cũng như của cơ sở đào tạo, họ sẽ có ý thức tự học, tự nghiên cứu cao hơn. Muốn vậy phải rà soát đầu vào chặt chẽ, cử người thi tuyển hoặc đi học phải xứng đáng, dựa trên các tiêu chuẩn đặt ra về kết quả quá trình công tác và định hướng phát triển của tổ chức. Thực tế trong những năm qua, việc lựa chọn đầu vào các chương trình đào tạo lý luận đều có quy định khá chặt chẽ, bảo đảm cơ bản tuyển, cử đúng người.
Gắn liền với nguồn đầu vào, quan niệm về nghề nghiệp trong xã hội hiện nay cũng là nhân tố ảnh hưởng nhất định đến thu hút và đào tạo cán bộ lý luận. Bởi lẽ hiện nay theo quan niệm xã hội, những ngành gắn với tài chính, công nghệ thông tin, thương mại,... được xem là những ngành có nhiều tương lai, có khả năng bảo đảm tìm việc với thu nhập tốt. Còn những chuyên ngành gắn với lý luận không những học khô khan, mà ra trường khó tìm việc, nên không thu hút được học sinh giỏi, khá. Với nền tảng đầu vào hạn chế sẽ tác động trực tiếp đến quá trình học tập và chất lượng đầu ra. Thực tế thu nhập của đội ngũ cán bộ hiện đang làm công tác lý luận rất hạn chế, ngoài đồng lương cơ bản, không có những khoản thưởng lễ tết cao như các ngành tài chính, ngân hàng, hay các lĩnh vực hoạt động kinh doanh khác. Vì vậy có thể thấy động lực thúc đẩy phấn đấu học tập vươn lên chính là tinh thần, là sự yêu nghề tự thân của mỗi người cán bộ. Thiếu ý thức, năng lực tự phấn đấu sẽ rất khó khăn trong quá trình học tập, bồi dưỡng cũng như tự học nâng cao trình độ.
Hơn nữa, trong thực tế không ít cấp ủy, chính quyền, và bản thân cán bộ, đảng viên ở các cấp chưa thực sự coi trọng lý luận, nếu không muốn nói là xem thường lý luận. Không ít cán bộ lãnh đạo được đi học cao cấp lý luận chính trị, nhưng động cơ không đúng đắn, đi học chỉ để “trang trí” cho có bằng cấp, làm điều kiện cho quy hoạch hoặc bổ nhiệm. Chính vì vậy chất lượng đào tạo thấp, không ít người đi học lý luận mà không hiểu, không nắm được “linh hồn” của lý luận, không biến lý luận thành phương pháp nhận thức, phương pháp hành động, phương pháp công tác. Hậu quả là thiếu tính sáng tạo, nặng về tư duy kinh nghiệm, tầm nhìn hạn hẹp, tổ chức công việc lúng túng, thiếu bài bản, thiếu khoa học.
Thứ tư, về nội dung chương trình và phương pháp đào tạo. Đây là nhân tố có tính quyết định đến chất lượng đào tạo, đến sự phù hợp về kết quả đào tạo với yêu cầu sử dụng cán bộ. Nội dung chương trình và phương pháp đào tạo cần phù hợp, sát với đòi hỏi của thực tiễn công việc, nếu không sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo và làm tổn phí các nguồn lực cho xã hội.
Để có nội dung chương trình đào tạo phù hợp đòi hỏi phải xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn công việc hoạt động lý luận và thực trạng của đội ngũ cán bộ lý luận. Trong những năm qua nội dung chương trình đào tạo lý luận, nhất là lý luận chính trị cũng luôn được chú ý cập nhật. Nhiều chương trình và kiến thức mới được đưa vào giảng dạy, đào tạo cán bộ lý luận, đã góp phần nâng cao chất lượng cán bộ, đáp ứng những đòi hỏi của hoạt động lý luận. Chẳng hạn, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã nhiều lần biên soạn, chỉnh sửa chương trình đào tạo cao cấp lý luận chính trị theo hướng hoàn thiện hơn; đã áp dụng chương trình có sự tích hợp cả hình thức môn học và hình thức học theo chuyên đề. Chương trình đào tạo mới này đã thể hiện những ưu điểm lớn so với các chương trình áp dụng trước đây.
Tuy nhiên, như đánh giá của đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, tại Hội nghị Tổng kết công tác đào tạo của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2017: “một số nội dung chương trình đào tạo của Học viện vẫn còn thiếu tính thực tiễn, vẫn còn khoảng cách giữa lý thuyết và thực hành”. Hơn nữa, theo kết quả khảo sát cho thấy vẫn còn có những kỳ vọng lớn hơn nữa từ cả đối tượng người học và người dạy đối với nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng của hệ thống Học viện... Mặc dù đã có những đổi mới đáng kể trong thời gian qua, nhưng nội dung các chương trình đào tạo bồi dưỡng vẫn chưa thường xuyên được cập nhật cho phù hợp với các nhóm đối tượng đào tạo, đặc biệt là các chương trình được thiết kế cho mục đích đào tạo theo chức danh. Nhìn chung, tính hệ thống, liên thông giữa các chương trình đào tạo bồi dưỡng vẫn chưa thực sự bảo đảm, khiến nội dung của các chương trình còn trùng lặp, gây lãng phí thời gian, công sức đào tạo, trong khi học viên vẫn chưa được trang bị đầy đủ khối lượng kiến thức và kỹ năng làm việc cần thiết cho vị trí công việc mà họ đang và sẽ đảm nhiệm. Nhiều ý kiến đánh giá của học viên cho thấy vẫn có những khoảng trống đáng kể về tính cập nhật, tính thực tiễn, tính liên thông, kế thừa... của hệ thống tài liệu, giáo trình và nội dung chương trình học tập như: “Nội dung các môn học, nhất là các môn phần lý luận chung trùng lặp nhiều với chương trình cử nhân chuyên ngành”; “Chương trình học chưa hợp lý: ví dụ một đồng chí đã tốt nghiệp đại học luật rồi đáng ra nên được miễn học và thi môn này nhưng vẫn phải học và thi”(2).
Cùng với nội dung chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo là yếu tố tác động trực tiếp đến khả năng tiếp thu của đối tượng được đào tạo. Phương pháp đào tạo phù hợp, tiên tiến sẽ có tác động tích cực hiệu quả đào tạo. Trong những năm qua hệ thống đào tạo của chúng ta, trong đó có đào tạo cán bộ lý luận cũng đã có đổi mới trong phương pháp đào tạo. Cách thức truyền đạt kiến thức theo kiểu “thày nói trò ghi” đã được hạn chế, mà thay vào đó là tăng sự chủ động của học viên, tăng sự trao đổi thảo luận và khảo sát thực tế. Ở các bậc học cao tính tự học, tự nghiên cứu đã được chú trọng. Chính điều này đã làm tăng tính sinh động trong các tiết học về lý luận chính trị, cuốn hút người học hơn.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, phương pháp giảng dạy chưa được đổi mới toàn diện, chưa bắt kịp với sự cải tiến về nội dung, dẫn đến chất lượng giảng dạy chưa cao. Trong thời gian gần đây, hệ thống học viện và nhà trường tham gia đào tạo cán bộ lý luận đã có rất nhiều nỗ lực trong việc cải tiến phương pháp giảng dạy, đặc biệt là áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực trong hầu hết các hệ đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng bài giảng, tăng hiệu quả trong truyền tải những kiến thức lý luận vốn được xem là khô cứng. Đồng thời, để khuyến khích việc áp dụng những phương pháp giảng dạy hiện đại, các cơ sở đào tạo đã mở nhiều lớp tập huấn ở trong và ngoài nước dành cho các giảng viên. Tuy nhiên, trên thực tế, việc áp dụng phương pháp giảng dạy hiện đại vẫn chủ yếu là việc làm tự nguyện của các giảng viên và hiệu quả của nhiều bài giảng cũng chưa thật sự đạt yêu cầu, còn có xu hướng chỉ đơn thuần thay việc viết bảng trước đây bằng việc dùng thiết bị trình chiếu. Không ít giảng viên vẫn nặng về thuyết trình mà thiếu sự trao đổi, giao lưu, thảo luận với học viên.
Về các chỉ báo định lượng trong đánh giá, khi yêu cầu học viên đánh giá về năng lực chuyên môn của giảng viên, nội dung giảng dạy, phương pháp giảng dạy và tài liệu học tập, trên cơ sở so sánh với quy chuẩn quốc tế (theo thang điểm 10), kết quả khảo sát cho thấy điểm số trung bình trong đánh giá về nội dung giảng dạy đạt cao nhất (5,67 điểm), và thấp nhất là điểm số đánh giá về tài liệu học tập (4,75 điểm).
Rõ ràng là, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ rất cần có sự đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương pháp dạy và học, tạo sự gắn bó chặt chẽ hơn giữa lý luận với thực tiễn, nhằm khắc phục những hạn chế trong đào tạo như Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra: “Hệ thống, chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị còn nhiều bất hợp lý. Phương pháp giảng dạy, học tập lý luận chính trị còn lạc hậu”(3).
Thứ năm, về uy tín và trình độ giảng viên. Nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo. Một đội ngũ giảng viên nhiệt huyết và có uy tín, trình độ sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, và ngược lại, thiếu đội ngũ giảng viên, hoặc yếu về năng lực sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng quá trình đào tạo. Trong hoạt động đào tạo, người giảng viên không chỉ có nhiệm vụ truyền đạt tri thức mà quan trọng hơn là phải tổ chức trao đổi thông tin một cách hiệu quả. Đồng thời, đội ngũ học viên cũng được mong đợi không chỉ tiếp thu thông tin, tri thức do giảng viên truyền đạt, mà còn phải chủ động trao đổi kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm công tác, bàn bạc, thảo luận về các giải pháp đối với những vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Do vậy, yêu cầu về đạo đức, trình độ, kinh nghiệm công tác, xử lý tình huống và phương pháp giảng dạy phù hợp của giảng viên là vô cùng quan trọng. Trong những năm qua, đội ngũ giảng viên ở các cơ sở đào tạo cán bộ lý luận, đặc biệt là ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã có những thay đổi theo hướng ngày càng trẻ hóa, tỷ lệ giảng viên được đào tạo bài bản ngày càng nhiều, chất lượng các bài giảng đã được cải thiện. Kết quả khảo sát tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho thấy có rất nhiều ý kiến học viên đánh giá tích cực về giảng viên, nhất là các giảng viên của Học viện Trung tâm. Đặc biệt, hoạt động giảng dạy ở một số chuyên ngành “đặc thù” của Học viện, như xây dựng Đảng, triết học... được đánh giá khá cao.
Tuy nhiên cần thấy rằng, đội ngũ giảng viên cũng còn nhiều hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng. Trong các trường đại học, cao đẳng, số giảng viên các môn lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh chiếm tỷ lệ nhỏ (khoảng 6% trong ngành) nhưng phải đảm nhiệm một khối lượng giảng dạy lớn (khoảng hơn 10% tổng số giờ của chương trình) nên chỉ tập trung vào giảng dạy, ít có điều kiện thời gian nghiên cứu khoa học. Số cán bộ khoa học nghỉ hưu hằng năm khoảng 10%, nhưng thiếu nguồn cán bộ có chất lượng bổ sung thay thế (gần đây do thực hiện Nghị định của Chính phủ về kéo dài tuổi làm việc đối với các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ trong các cơ sở giáo dục đại học nên tỷ lệ cán bộ khoa học nghỉ hưu có giảm đi). Số giảng viên có học hàm, học vị tập trung chủ yếu ở các học viện, viện nghiên cứu, các trường đại học lớn ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Ở các trường chính trị tỉnh, thành phố, lực lượng giảng viên lý luận chính trị rất mỏng, nhiều trường không có tiến sĩ, việc bổ sung lực lượng rất khó khăn. Hơn nữa, trong thực tế cũng còn không ít giảng viên chưa có nhiều kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn, chưa kịp thời cập nhật tri thức chuyên môn và bồi dưỡng kiến thức về lý luận Mác - Lê-nin, chưa có nhiều kỹ năng xử lý tình huống nên việc giảng dạy còn mang nặng tính chất “rao giảng”, chưa thật sự thuyết phục người học. Ở một số cơ sở đào tạo, việc đào tạo đội ngũ giảng viên kế cận chưa được ưu tiên, chưa có chiến lược lâu dài. Đánh giá về nội dung này, Hội nghị Tổng kết công tác đào tạo, bồi dưỡng năm học 2016 - 2017 và phương hướng nhiệm vụ năm học 2017 - 2018 của Học viện Chính trị khu vực IV đã chỉ ra: “Chất lượng, nội dung và phương pháp giảng dạy của giảng viên trong năm học 2016 - 2017 đã có bước tiến bộ, thể hiện qua kết quả đánh giá bài giảng trực tuyến và các kênh thăm dò khác. Tuy nhiên, lực lượng giảng viên còn tương đối mỏng so với nhu cầu hiện tại, trong đó còn một số giảng viên ít có kinh nghiệm, trong quá trình giảng dạy chưa thoát ly khỏi giáo trình, hoặc ít liên hệ với thực tiễn; cơ sở vật chất còn thiếu, nhất là phương tiện phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập gặp rất nhiều khó khăn; đội ngũ cán bộ, viên chức còn thiếu so với nhu cầu công việc”(4).
Thứ sáu, về chế độ chính sách, nguồn lực và điều kiện đào tạo.
Chế độ chính sách đào tạo cán bộ nói chung là tổng thể các quan điểm, các nguyên tắc và các quy định thể hiện trong các văn bản của Đảng và Nhà nước nhằm điều chỉnh hoạt động bồi dưỡng cán bộ, những quyền lợi và nghĩa vụ của cán bộ khi tham gia đào tạo bồi dưỡng phù hợp với hoàn cảnh khách quan và những mục tiêu của Đảng, Nhà nước trong mỗi thời kỳ lịch sử. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến công tác đào tạo cán bộ, nhất là cán bộ lý luận. Chúng có thể tạo ra các cơ hội, cũng có thể gây ra trở ngại, thậm chí là rủi do cho những cơ sở đào tạo. Sự ổn định về chính trị, sự nhất quán về quan điểm chính sách sẽ tạo điều kiện cho công tác đào tạo được thực hiện một cách suôn sẻ. Các chính sách ưu tiên động viên, khuyến khích sẽ thúc đẩy hoạt động đào tạo bồi dưỡng và cũng thúc đẩy cán bộ tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực công tác.
Thực tế hiện nay các ngành “thời thượng”, như tài chính, công nghệ thông tin... thường xuyên quá tải đầu vào, còn các ngành gắn với hoạt động lý luận, như triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học, một số ngành khoa học xã hội nhân văn có khó khăn trong thu hút đầu vào, thậm chí không có sinh viên đào tạo. Lý do cơ bản là chúng ta chưa có một chính sách cụ thể cần thiết để khuyến khích công tác đào tạo các môn lý luận hướng tới trực tiếp tạo nguồn cán bộ lý luận cho Đảng và Nhà nước.
Các nguồn lực và cơ sở vật chất cho công tác đào tạo cán bộ lý luận có bước cải thiện đáng kể. Mặc dù điều kiện ngân sách còn hạn hẹp, nhưng Nhà nước hằng năm vẫn bảo đảm các điều kiện kinh phí cho công tác đào tạo và tổ chức nghiên cứu. Hệ thống cơ sở vật chất, thiết bị tin học đã được đầu tư nâng cấp, nhất là trong những năm đổi mới vừa qua. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các học viên, nhất là các học viên ở xa đến học tại các học viện, nhà trường ở thành phố. Hệ thống thư viện của các cơ sở đào tạo được đầu tư hiện đại, kết nối in-tơ-nét tạo cơ sở dữ liệu, tài liệu cho công tác đào tạo thuận lợi.
Bên cạnh những kết quả đó, công tác tổ chức quản lý đào tạo, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo vẫn còn một số bất cập. Chẳng hạn việc điều chỉnh quy mô đào tạo bồi dưỡng theo chủ trương tăng quy mô đào tạo tập trung, giảm quy mô đào tạo tại chức. Trong điều kiện cơ sở vật chất còn hạn chế nhất định, việc tăng quy mô đào tạo tập trung nhiều khi khiến cho các cơ sở đào tạo lúng túng trong bố trí cân đối các nguồn lực. Thực tế này đang diễn ra trong hệ thống các cơ sở của học viện chính trị. Cùng với đó, việc phụ thuộc vào việc phân bổ chỉ tiêu đào tạo bồi dưỡng của Ban Tổ chức Trung ương và sự kết hợp chưa chặt chẽ với các đơn vị, cơ quan đầu mối tuyển sinh cũng dẫn đến việc thiếu chủ động trong thực hiện kế hoạch chiêu sinh, gây ra tình trạng dồn ứ các lớp, bất cập trong phân công lực lượng giảng dạy tại một số thời điểm nhất định.
3- Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lý luận ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sử dụng cán bộ. Nếu chất lượng đào tạo tốt thì sẽ có những cán bộ vừa có trình độ chuyên môn, vừa có phẩm chất, tức là “vừa hồng, vừa chuyên”. Đội ngũ cán bộ có chất lượng không chỉ ở sự phù hợp về số lượng mà còn ở cơ cấu hợp lý. Đối với đội ngũ cán bộ lý luận, ngoài chuyên ngành về xây dựng Đảng, rất cần đội ngũ cán bộ chuyên sâu về lý luận chính trị, những cán bộ gắn với các chuyên ngành, như triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, xã hội học... và một số ngành khoa học xã hội nhân văn. Cùng với đào tạo rộng về diện, cần đào tạo chuyên sâu nhằm tạo ra nguồn lực chất lượng cao, những chuyên gia hàng đầu. Gắn đào tạo nền tảng cơ bản với bồi dưỡng nâng cao chuyên sâu.
Ngược lại, nếu chất lượng đào tạo không tốt, cơ cấu không hợp lý, số lượng không bảo đảm thì sẽ dẫn đến tình trạng đội ngũ cán bộ lý luận đông, nhưng không tinh, không mạnh, vừa thừa, vừa thiếu trong việc bảo đảm các nhiệm vụ nghiên cứu phát triển lý luận, cũng như đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Hiện nay trong đánh giá chất lượng đào tạo cũng chưa có bộ tiêu chí chặt chẽ phù hợp với điều kiện của nước ta cũng như tương thích chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Việc đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chủ yếu mới chỉ dừng ở việc lấy ý kiến khảo sát của người học sau tốt nghiệp và ý kiến của một số cơ sở sử dụng số cán bộ được đào tạo. Từ việc đánh giá chuẩn xác chất lượng đào tạo chúng ta mới có căn cứ đánh giá tác động đến quá trình sử dụng.
Mặc dù vậy, qua thực tế hoạt động đào tạo cán bộ lý luận thời gian qua, chúng ta đã tạo ra đội ngũ khá đông đảo về số lượng, đa dạng về cơ cấu và chất lượng cũng đã được nâng cao trên một số phương diện. Chính nguồn lực này đã đóng góp tích cực vào việc giải quyết nhiều vấn đề lý luận do thực tiễn phát triển của đất nước đặt ra, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua.
Song cũng cần thấy rằng, bên cạnh những kết quả đạt được, chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ lý luận cũng còn không ít hạn chế. “Nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế... Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường”(5). Với nguồn lực như vậy đã ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sử dụng cán bộ, hiệu quả sử dụng không cao, không ít vấn đề lý luận còn bỏ ngỏ. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục làm rõ”(6).
Thực trạng nêu trên đòi hỏi cần có sự chú ý hơn nữa đến các nhân tố ảnh hưởng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lý luận. Cùng với việc hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, cần phải chú ý đến quy trình đào tạo hợp lý theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn, bảo đảm chất lượng đào tạo trong từng khâu của quy trình đào tạo. Có vậy mới bảo đảm tạo ra được đội ngũ cán bộ lý luận có tâm, đủ năng lực và ngang tầm giải quyết các vấn đề lý luận đặt ra trên con đường xây dựng, phát triển đất nước./.
------------------------------------------------
(1) Xem: Lê Thị Thục: “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5-2016
(2) Xem: Lê Thị Thục: Tạp chí đã dẫn
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 193
(4) Theo Cổng Thông tin điện tử Học viện Chính trị khu vực IV, ngày 16-6-2017, https://hcma4.hcma.vn/tintuc/Pages/tin-tuc-hoat-dong.aspx?itemID=10624&CateID=334
(5) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018. tr. 47
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 67
Một số kinh nghiệm từ quá trình tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở trên địa bàn biên giới của lực lượng vũ trang các quân khu  (20/03/2019)
Sự kiện trong nước nổi bật tuần qua (từ ngày 11 đến ngày 17-03-2019)  (19/03/2019)
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tiếp các vị khách quốc tế đến thăm và làm việc tại Việt Nam  (19/03/2019)
Hoạt động đối ngoại nổi bật tuần qua (từ ngày 11 đến ngày 17-3-2019)  (19/03/2019)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển