1 - Thực trạng hệ thống chính trị cơ sở ở Tây Nguyên.

Hoạt động của hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị cơ sở ở Tây Nguyên nói riêng xét từ phương diện chức năng, một mặt nhằm bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội (giữ vững ổn định chính trị xã hội), mặt khác - mặt cơ bản là nhằm huy động tốt nhất mọi nguồn lực (nội lực và ngoại lực) để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương theo mục tiêu của từng thời kỳ kế hoạch của chiến lược phát triển.

Từ phương diện này, phải thấy rằng, nhờ nhận thức đúng những lợi thế cũng như những trở lực (khách quan và chủ quan), dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự điều hành quản lý của các cấp chính quyền cũng như sự cố gắng của các tổ chức đoàn thể quần chúng, nhân dân các dân tộc Tây Nguyên đã tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, lập nên nhiều thành tựu trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới. Qua hơn 20 năm đổi mới, Tây Nguyên đã có bước phát triển cả về tốc độ tăng trưởng kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong 5 năm 2000 - 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Tây Nguyên đạt 10,4%/năm, trong đó, năm 2000 là 10,5%, năm 2002 là 7,3%, năm 2003 là 11,2%, năm 2004 là 11,0%, năm 2005 là 12,0%. Hệ thống các buôn làng, đô thị đã có nhiều thay đổi, tốc độ đô thị hóa ở Tây Nguyên thuộc loại cao so với cả nước. Điện khí hóa, hệ thống thủy lợi nông thôn được chú trọng phát triển. Nhờ vậy, mức sống của phần lớn các tầng lớp dân cư đã được cải thiện và từng bước ổn định, nâng cao.

Tuy nền kinh tế Tây Nguyên phát triển nhanh nhưng không cân đối, đồng bộ, thiếu tính đột phá về cơ cấu, do đó không bền vững. Sự phát triển kinh tế tập trung vào các vùng đô thị, ven các trục giao thông. Vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng phát triển còn quá chậm chạp, đời sống khó khăn. Mức sống giữa các vùng, các tầng lớp dân cư chênh lệch khá lớn và đang có xu thế doãng xa thêm. Theo báo cáo của các tỉnh Tây Nguyên, đến cuối năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) trong đồng bào dân tộc thiểu số còn rất cao, bình quân toàn vùng trên 60%, trong đó: Lâm Đồng: 55%, Đắc Nông: 63%, Đắc Lắc: 62%, Gia Lai: 81%, Kon Tum: 88%. Tốc độ giảm nghèo những năm vừa qua mới chỉ đạt khoảng 2% - 3%/năm cho toàn vùng.

Trong lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo vẫn còn nhiều bất cập, rõ nét nhất là hiện tượng thiếu sát dân, không nắm được dân và điều đó lại xảy ra ngay tại cơ sở. Chính những thiếu sót, khuyết điểm ấy của hệ thống chính trị các cấp, nhất là cấp cơ sở vô hình trung đã tạo môi trường, điều kiện cho các thế lực phản động lôi kéo và kích động quần chúng gây rối, chống phá chế độ.

Một trong những thành tựu quan trọng trong tiến trình đổi mới ở Tây Nguyên đó là tất cả các cấp độ trong hệ thống chính trị từ tỉnh, huyện đến xã, phường đã thực sự từng bước được củng cố, tăng cường để thích nghi dần với đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ hội nhập.

Từ một hệ thống tổ chức mang nặng tính tập trung, quan liêu, hành chính... qua đổi mới, toàn hệ thống cũng như mỗi nhân tố cấu thành (tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng) đã thực sự có bước chuyển đổi về chất. Ở Tây Nguyên đã hình thành một bộ máy - hệ thống các cơ quan quyền lực đại diện với một lớp cán bộ trẻ tại các xã, thôn, buôn để có thể sát cánh với lớp cán bộ "thời chiến đi ra" trong sự nghiệp xây dựng, phát triển quê hương, đất nước. Đây chính là lực lượng nòng cốt đang hằng ngày điều hành công việc xã hội, tạo nên những đổi thay cơ bản bộ mặt xã hội. Có thể nói, những chủ trương của Đảng và Nhà nước đã được cụ thể hóa và tổ chức thực hiện ở cơ sở thông qua vai trò và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở là nét chủ đạo tạo nên những đổi thay căn bản trong nếp nghĩ, lối sống và cách làm ăn của một bộ phận đáng kể đồng bào dân tộc thiểu số (rõ nhất là vùng ven đô thị, vùng có sự đan xen cư dân các thành phần dân tộc).

Tuy vậy, trên thực tế hệ thống chính trị cơ sở cũng như mỗi thành tố cấu thành vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế. Biểu hiện của nó là mô hình, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở chưa thể hiện rõ nét đặc thù của xã hội Tây Nguyên. Đây là một trong những nguyên nhân khiến hệ thống chính trị cơ sở hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả; cách thức vận hành chồng chéo, ách tắc. Qua phân tích chất lượng, hiệu quả của từng nhân tố cấu thành hệ thống chính trị cơ sở ở đây có thể thấy rõ được điều này.

Về tổ chức đảng

Nhìn tổng thể, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, các tổ chức đảng và đảng viên ở cơ sở - rõ nhất là khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa cho đến nay vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển trong thời kỳ đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập, giao lưu.

Sự bất cập của tổ chức cơ sở đảng ở Tây Nguyên thể hiện ở các khía cạnh sau:

- Năng lực cụ thể hóa và khả năng vận động quần chúng thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước còn rất hạn chế, yếu kém. Trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ của cả hệ thống nói chung còn nhiều bất cập nên vừa lúng túng trong lãnh đạo, chỉ đạo... vừa có biểu hiện buông trôi, cầm chừng.

- Số lượng đảng viên làm kinh tế giỏi không nhiều. Phần đông gia đình đảng viên làm ăn kém hiệu quả, đời sống khó khăn nhưng vẫn chưa có hướng khắc phục; ít giao lưu, kém năng động nên khó nêu gương trước quần chúng và cũng không có điều kiện lo cho cái chung - cái xã hội.

- Công tác phát triển đảng gặp nhiều khó khăn cả về nguồn lẫn cách thức, cơ chế . Toàn vùng hiện có tới gần 14% thôn buôn chưa có đảng viên.

Về chính quyền cơ sở

Chất lượng, hiệu quả hoạt động của chính quyền là tấm gương phản chiếu sinh động nhất, cụ thể nhất chất lượng và hiệu quả của hệ thống chính trị cơ sở. Tuy đã có nhiều chuyển biến, nhưng nhìn chung bộ máy chính quyền cơ sở thực sự phải đáng được quan tâm củng cố, tăng cường trên nhiều phương diện:

- Hội đồng nhân dân phần nhiều hoạt động có tính hình thức, chưa hội đủ điều kiện, môi trường để thực hiện vai trò, trách nhiệm của một cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân.

- Hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội còn nhiều yếu kém. Khả năng chủ động trong việc xử lý các tình huống, nhất là các tình huống nhạy cảm, phức tạp rất hạn chế, thường phải trông chờ sự chỉ đạo, làm thay của cấp trên.

- Cán bộ cơ sở không thiếu về số lượng, nhưng năng lực, tâm huyết còn chưa tương thích, tạo cảm giác vừa thiếu, vừa thừa. Trong khi đó nguồn bổ sung theo tiêu chuẩn lại khan hiếm.

- Cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc của chính quyền cơ sở nhìn chung quá thiếu thốn, sơ sài, chưa bảo đảm ở mức tối thiểu để một bộ máy công quyền hoạt động đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa, chính quy hóa công sở.

- Vẫn có những biểu hiện tập trung, quan liêu, thậm chí đặc quyền, chuyên quyền, vi phạm các nguyên tắc của thể chế dân chủ; vi phạm pháp luật từ phía các cơ quan nhà nước, các tổ chức quyền lực cũng như từ phía nhân dân mà không được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh.

+ Mặt trận và các tổ chức quần chúng

Tuy đã có những chuyển biến nhất định so với thời kỳ đầu chuyển đổi cơ chế, song nhìn tổng thể vai trò của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng phần lớn chưa thật sự rõ nét. Cách thức hoạt động nặng tính hình thức, thời vụ. Bên cạnh những bất cập về cơ chế chung của hệ thống, bản thân các tổ chức này cũng chưa thật sự đổi mới nội dung, phương thức hoạt động. Không ít cán bộ đoàn thể làm việc cầm chừng, đối phó. Trình độ, năng lực đa phần hạn chế, yếu hơn so với khối đảng, khối chính quyền. Các phong trào quần chúng chưa đến được vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng. Các tổ chức này ít nơi xây dựng được lực lượng nòng cốt ở cơ sở, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Gốc rễ của vấn đề là sự cảm nhận mơ hồ về lợi ích của mỗi thành viên trong các tổ chức; là sự thiếu vắng những thủ lĩnh có tầm và tâm huyết với phong trào.

2 - Định hướng và giải pháp để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ở Tây Nguyên

Một là, tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp ủy và tổ chức đảng ở cơ sở, từng bước nâng cao năng lực quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền cơ sở.

Ở nước ta, Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị, vì vậy sức mạnh của hệ thống chính trị được thể hiện trước hết ở sức mạnh của tổ chức đảng. Muốn toàn bộ guồng máy xã hội vận hành trôi chảy, hoạt động có hiệu quả phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, trực tiếp là của cấp ủy. Cụ thể là phải tập trung xây dựng chi bộ, đảng bộ, xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh về mọi mặt, mỗi tổ chức đảng phải là hạt nhân lãnh đạo ở cơ sở, phải vững vàng về chính trị, tư tưởng, tổ chức.

Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thể hiện ở việc vận dụng sáng tạo chủ trương, nghị quyết của Đảng vào tình hình cụ thể của địa phương nhằm phát triển kinh tế - xã hội giữ vững ổn định chính trị, an ninh trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Năng lực đó, xét đến cùng được kiểm định và đánh giá thông qua mức độ hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân và giữ vững ổn định chính trị - xã hội, quốc phòng - an ninh trên địa bàn. Vì vậy, hệ giải pháp nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng nông thôn trong lĩnh vực kinh tế - xã hội được xem là hệ giải pháp có tính mục đích xuyên suốt.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi tổ chức cơ sở đảng phải thường xuyên kiểm tra giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong thực tế để có thể ngăn ngừa, hạn chế những khuyết điểm, tiêu cực, bảo đảm khai thác, sử dụng các nguồn lực có hiệu quả. Kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc hoặc mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Cùng với việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, việc nâng cao năng lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp có vai trò đặc biệt quan trọng. Với tư cách là người đại diện cho nhân dân, hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân phải thực sự là chính quyền của dân, do dân và vì dân. Trên cơ sở các chủ trương nghị quyết của cấp ủy, chính quyền phải cụ thể hóa thành những chương trình hành động cụ thể, thiết thực và tổ chức cho nhân dân thực hiện.

Hiệu lực quản lý và điều hành của chính quyền được thể hiện ở chỗ mỗi chủ trương, nghị quyết của Đảng đều đi vào cuộc sống của nhân dân bằng những chương trình, dự án cụ thể. Các chương trình dự án đó phải để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Chính quyền là người nói để dân nghe được và phải nghe dân nói, không làm những điều phương hại đến lợi ích của nhân dân cũng như không để cho những người lợi dụng dân chủ làm những điều sai trái, vi phạm pháp luật, không tuân thủ những quy định của chính quyền về quản lý xã hội. Muốn nâng cao năng lực quản lý điều hành của chính quyền các cấp thì phải có đội ngũ cán bộ công chức vững mạnh, họ không chỉ có lòng trung thành, nhiệt tình, có tính quyết đoán mà còn phải có trình độ chuyên môn, nắm vững các nguyên tắc quản lý kinh tế - xã hội, có khả năng lãnh đạo, quản lý, điều hành các công việc thuộc phạm vi mình phụ trách.

Hai là, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể của quần chúng.

Việc phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng trong mọi hoạt động góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn Tây Nguyên. Thực tế có những vụ việc Đảng và chính quyền không thể giải quyết ngay được, hoặc không thể trực tiếp giải quyết mà phải thông qua Mặt trận và các đoàn thể quần chúng để tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục nhân dân thực hiện. Thông qua hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng sẽ làm cho quan hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân càng thêm gắn bó, dân thêm tin Đảng, hiểu được những chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng sao cho mọi người dân đều có thể tiếp nhận và thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Vì vậy, việc khắc phục bệnh quan liêu, hình thức, xa dân cần phải được kiểm tra, giám sát và hoàn thiện thường xuyên. Qua đó, tập trung đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động, tập hợp quần chúng theo hướng sát dân, thỏa mãn nhu cầu chính đáng của nhân dân. Thực hiện có hiệu quả cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" và Pháp lệnh Dân chủ ở cơ sở. Đa dạng hóa các hình thức vận động và nâng cao tỷ lệ tập hợp quần chúng nhân dân vào tổ chức, nhất là Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Phát huy các hình thức tự quản của cộng đồng dân cư, coi trọng vai trò già làng, trưởng thôn, những người có uy tín ở cộng đồng trong công tác vận động quần chúng. Thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc, không tạo ra những kẽ hở để kẻ xấu lợi dụng.

Ba là, tổ chức thực hiện tốt Pháp lệnh Dân chủ ở cấp xã.

Pháp lệnh Dân chủ là sự cụ thể hóa quan điểm, đường lối xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong những năm đổi mới. Vì thế, một khi pháp lệnh này chưa trở thành hành động thực tế của hệ thống chính trị và của mọi tầng lớp nhân dân thì dân chủ sẽ trở thành một nguyên tắc pháp lý nhưng không được thực hiện. Dân chủ là mọi việc có liên quan đến quốc kế, dân sinh, đến quyền lợi và nghĩa vụ của dân thì dân phải biết, phải được tham gia bàn bạc, đóng góp ý kiến. Dân chủ được khẳng định trên thực tế chính là việc thường xuyên phát huy vai trò làm chủ của nhân dân - dân là chủ và dân làm chủ - trong mọi hoạt động của đời sống xã hội. Chỉ có như vậy mới tạo nên sự đồng thuận xã hội - nguồn lực to lớn để có thể vượt qua các thách thức, trở lực trong quá trình phát triển.

Muốn làm được điều đó, đối với đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên, bức xúc nhất là tạo lập các tiền đề kinh tế, văn hóa, xã hội để từng bước cải thiện mức sống, nâng cao chất lượng sống... Phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí bằng phổ cập giáo dục từng bậc học, chăm sóc sức khỏe của nhân dân... đó vừa là nội dung, vừa là điều kiện để thực hiện dân chủ trên thực tế. Người dân không thể làm chủ bản thân, làm chủ xã hội khi còn nghèo nàn, lạc hậu, mù chữ. Chính quyền cơ sở phải thật sự coi trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm các điều kiện cũng như động viên nhân dân thực hiện đúng Pháp lệnh, ngăn chặn loại bỏ các biểu hiện độc đoán chuyên quyền, trù dập nhân dân, biểu hiện dân chủ hình thức.

Bốn là, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở.

Nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên là nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, của hệ thống chính trị nói chung. Để thực hiện có hiệu quả giải pháp này cần:

Tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị 34-CT/TW của Bộ Chính trị và kế hoạch hành động của các cấp ủy nhằm tạo điều kiện để nhiều đảng viên được tham gia học tập lý luận chính trị, trước hết là cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở cơ sở. Đổi mới nội dung, phương pháp học tập và giảng dạy các môn học trong các chương trình đào tạo sao cho sát hợp với yêu cầu thực tiễn và phù hợp với từng loại đối tượng. Thường xuyên tổ chức quán triệt kịp thời và tổ chức thực hiện nghiêm nghị quyết, chỉ thị, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong các tổ chức cơ sở đảng nông thôn. Đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị các cấp ở Tây Nguyên hiện nay còn hạn chế về trình độ, năng lực và chưa ngang tầm với nhiệm vụ được giao. Vì vậy, các cấp, các ngành cần quan tâm hơn nữa công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cả về văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị nhằm tạo ra một mặt bằng về trình độ và một sự đồng bộ về đội ngũ cán bộ giữa các cấp, các ngành, các lĩnh vực.