Giá trị nhân văn của pháp luật - Bộ phận cấu thành văn hóa nhân văn công vụ
Cải cách công vụ, công chức là nội dung quan trọng, có vai trò quyết định sự thành công của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020. Để triển khai thực hiện Chương trình này, ngày 18-10-2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức” với mục tiêu xây dựng một nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả. Cải cách công vụ, công chức gắn liền hữu cơ với hoàn thiện thể chế pháp luật và phải từ những yêu cầu thực hiện chức năng và nhiệm vụ nhân văn của Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Tính nhân văn thể hiện ở ngay trong mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa mà Đảng ta đã đề ra. Đó là nền văn hóa hướng tới đấu tranh, giải phóng cho con người, trước hết là nhân dân lao động khỏi sự áp bức, bóc lột về phương diện giai cấp, dân tộc và xã hội; phấn đấu để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; tạo điều kiện để nhân dân tham gia sáng tạo, hưởng thụ nhiều hơn những thành tựu văn hóa của dân tộc và nhân loại. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tính nhân văn của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn liền với chế độ chính trị - xã hội tiến bộ “của dân, do dân và vì dân” hướng tới đề cao ý thức công dân, đề cao trật tự kỷ cương xã hội và thống nhất giữa quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân trước pháp luật. Đồng thời, phát huy dân chủ phải gắn liền với việc nâng cao ý thức chính trị, đạo đức xã hội và trình độ dân trí, tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng bộ máy nhà nước, chống lãng phí, tham nhũng, quan liêu và các tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước và ngoài xã hội. Tính nhân văn của quản lý nhà nước là phải phát huy dân chủ được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, chống tư tưởng tự do vô chính phủ, tự do vô kỷ luật.
Biểu hiện cụ thể của quan điểm chỉ đạo nêu trên trong hoạt động công vụ đó là: chú trọng duy trì và nâng cao kỷ luật, kỷ cương, đạo đức trong hoạt động công vụ; quy định rõ trách nhiệm cá nhân của cán bộ, công chức và đặc biệt là người đứng đầu trong hoạt động công vụ; coi việc thực hiện các nội dung cải cách hành chính, cải cách chế độ công vụ, công chức là một nhiệm vụ trọng tâm trong chương trình công tác hàng năm của mỗi cơ quan, đơn vị; việc đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ chung phải được tính đến cả kết quả thực hiện các nhiệm vụ của cải cách công vụ.
Do đó, cần thống nhất nhận thức rõ rằng: cải cách công vụ, công chức là một nội dung quan trọng của cải cách hành chính và đồng hành với cải cách hành chính, tức là các thủ tục hành chính gắn với hoạt động công vụ phải luôn được thực hiện trên tinh thần cải cách, cần đơn giản hóa, không rườm rà hơn, không phức tạp hơn trước, phải nhanh hơn, hiệu quả hơn, hạn chế tiêu cực, tham nhũng có thể phát sinh. Mục tiêu cuối cùng là phải xây dựng được một nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả vì nhân dân, phục vụ nhân dân, góp phần quan trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phòng, chống tham nhũng và bảo đảm sự thành công của công cuộc cải cách mà Đảng và Nhà nước ta đang quyết tâm thực hiện. Và để tiến tới hoàn thành mục tiêu đó không thể thiếu vai trò của pháp luật.
Hiến pháp sửa đổi năm 2013, Điều 8 tiếp tục khẳng định về đạo đức công vụ của cán bộ, công chức thể hiện qua thái độ của họ với nhân dân, như: tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; trong quá trình thực thi công vụ, cán bộ, công chức không chỉ tôn trọng pháp luật, mà còn phải có thái độ tích cực, kiên quyết đấu tranh chống những hành vi vi phạm pháp luật, chống lại mọi sự biểu hiện của tình trạng quan liêu, hách dịch cửa quyền, tham nhũng…
Pháp luật xác lập các giá trị nhân văn đối với công vụ trên cơ sở nền tảng thiết lập các giá trị đạo đức công vụ, vì:
- Thiết lập các quy tắc xử sự chung, pháp luật hướng tới bảo đảm tính thống nhất trong hành vi, cách xử sự, thái độ của những người phục vụ trong bộ máy nhà nước nhằm giải quyết các mối quan hệ giữa những người phục vụ Nhà nước với nhau - quan hệ bên trong nền công vụ và quan hệ giữa họ với người dân - quan hệ bên ngoài của nền công vụ.
- Tiếp nhận từ xã hội, từ thế hệ những người đi trước, từ những người thân trong gia đình, trường học hoặc qua quá trình tự nhận thức, cán bộ, công chức dần định hình và thực hành các quan niệm đạo đức công vụ hướng tới nền hành chính phục vụ. Song, để bảo đảm tính thống nhất về chính trị và pháp lý cần phải có sự thể chế hóa các quan niệm, quy tắc có tính phổ biến mà con người nhận thức được và được thừa nhận thành các quy tắc chính thống để cán bộ, công chức áp dụng chung trong thực thi công vụ.
- Những quy phạm pháp luật và đạo đức không phải lúc nào cũng trùng hợp và có thể được thực hiện hoàn toàn, bởi việc thực hiện còn phụ thuộc vào mức độ ý thức pháp luật, sự tự giác công vụ và lương tâm của cán bộ, công chức. Trên thực tế không phải lúc nào cán bộ, công chức cũng tự giác thực hiện các nguyên tắc, quy tắc đạo đức công vụ, do đó, Nhà nước phải thể chế hóa thành pháp luật, thành những quy tắc bắt buộc chung và bảo đảm cho những quy tắc đó được thực hiện trên thực tế bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục, tổ chức, pháp lý khác nhau và trong một số trường hợp bằng sức mạnh của quyền lực công.
- Thực tế đa dạng của cuộc sống và khác biệt của mỗi cá nhân, đặc biệt là trong những điều kiện thay đổi niềm tin và các giá trị xã hội luôn có thể xảy ra sự xuống cấp, xói mòn đạo đức, sự tha hoá của một bộ phận cán bộ, công chức trong thực thi công vụ và trong đời sống xã hội, khi mà các quy tắc đạo đức không còn đủ sức mạnh, không còn khả năng để điều chỉnh nữa, mà cần phải dựa vào pháp luật, nhờ vào sức mạnh có tính cưỡng chế của quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ nói trên bằng cách cấm việc thực hiện các hành vi, đặt các chế tài để trừng phạt đối với những cá nhân, tổ chức đã thực hiện những hành vi bị cấm đó và buộc phải thực hiện các hành vi luật định.
- Thể chế hóa bằng pháp luật đối với các quy phạm đạo đức trong công vụ là phương thức bảo đảm cho cán bộ, công chức thực hiện trách nhiệm của mình đối với nền công vụ, đồng thời để bộ quy phạm đạo đức công vụ được lồng vào các quy phạm pháp luật thì các quy phạm đó sẽ có sức sống lâu bền, được thực hiện một cách tự giác, tự nguyện hơn.
Giá trị của pháp luật - khả năng phục vụ mục đích và phương tiện thỏa mãn những nhu cầu xã hội xác đáng (chính đáng) của mỗi cá nhân và xã hội nói chung, khẳng định những khởi đầu công bằng và nhân văn trong các mối quan hệ tương hỗ giữa công dân với chính quyền, là sức mạnh đối trọng với bạo lực. Giá trị của pháp luật là xác lập vai trò tích cực của nó đối với xã hội, với mỗi cá nhân, tức là năng lực, mục đích và công cụ để thỏa mãn những nhu cầu và lợi ích công bằng xã hội, tiến bộ của công dân và xã hội nói chung.
Pháp luật hiện đại có những thuộc tính:
Giá trị công cụ: tạo cho các hoạt động của con người tính tổ chức, ổn định, đồng thuận, bảo đảm được kiểm soát, do đó đưa vào các yếu tố trật tự hóa và hệ thống của các mối quan hệ xã hội, là phương tiện văn minh hóa các mối quan hệ đó. Một xã hội có tổ chức không thể thiếu pháp luật nhằm điều chỉnh hoạt động sản xuất các phúc lợi vật chất, tổ chức các hình thức sở hữu và phân phối. Nó là công cụ mạnh mẽ không thể thay thế của quản lý nhà nước.
Giá trị tổng hòa xã hội: tổng hòa ý chí chung của các bên tham gia các mối quan hệ xã hội, pháp luật thúc đẩy các mối quan hệ mà trong đó mỗi cá nhân cũng như xã hội nói chung đều quan tâm. Những giá trị tổng hòa xã hội tác động tới hành vi và hoạt động của con người thông qua việc thống nhất (hài hòa) các lợi ích riêng của các bên. Pháp luật là biểu trưng của sự công bằng, là tiêu chí phân phối đúng đắn (công bằng) các phúc lợi xã hội, khẳng định sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật không phụ thuộc vào nguồn gốc xuất thân, tình trạng vật chất và vị thế xã hội,… của họ, tức là sự bình đẳng được quy phạm hóa và thực hiện trên thực tế. Pháp luật không bác bỏ các lợi ích của họ, không ngăn chặn (đàn áp) chúng, mà dung hòa chúng với những lợi ích chung. Giá trị tổng hòa xã hội của pháp luật được biểu hiện ở chỗ nó có thể là sự thể hiện các tư tưởng về sự bình đẳng. Sự bình đẳng trong hình dung của mọi người bao giờ cũng gắn liền với pháp luật. Mọi người đều biết rằng trong tiếng Latinh: thuật ngữ (từ) “pháp luật” - “jus” và công bằng - “justctia” đều có cùng một gốc từ. Mối quan hệ sâu xa giữa pháp luật và công bằng được xác lập bởi bản chất pháp luật của công bằng. Pháp luật có sứ mệnh (chức năng) đối trọng với bất công, nó bảo vệ lợi ích đồng thuận (hài hòa) và do đó khẳng định các quyết định công bằng.
Giá trị tự thân: Giá trị tự thân của pháp luật được xác định bởi việc nó là sự thể hiện (biểu trưng) và sự xác định (quyết định) (bằng quy mô, phạm vi) tự do của các cá nhân trong xã hội. Trong đó, giá trị của pháp luật là ở chỗ nó không xác định tự do nói chung, mà xác lập ranh giới, mức độ của sự tự do đó. Pháp luật là biểu trưng và mang trong mình tự do xã hội, tính tích cực xã hội, thống nhất với trách nhiệm xã hội và trật tự xã hội khi pháp luật đối chọi với không tự do, tùy tiện, vô trật tự, không kiểm soát của các cá thể và nhóm người nhất định. Với ý nghĩa đó, pháp luật là hình thức tự do được xác lập khách quan trong những điều kiện lịch sử cụ thể được biểu hiện trong những hành động và hành vi thực tế của con người, trong các mối quan hệ tương hỗ của họ. Trong một xã hội văn minh pháp luật có chức năng bảo đảm sự kết hợp tối ưu giữa tự do và công bằng. Khẳng định những tư tưởng tự do và công bằng, pháp luật trở thành giá trị đích thực đối với mỗi cá nhân và xã hội loài người nói chung. Giá trị tự thân của pháp luật còn chính là sự bảo đảm khả năng hoạt động bình thường của cá nhân và tổ chức, nó ngăn chặn sự can thiệp chuyên quyền, bất hợp pháp, vi phạm pháp luật vào lĩnh vực hoạt động hợp pháp của họ.
Giá trị nhân văn (cá nhân): lợi ích và ý nghĩa của pháp luật là nó khởi nguồn từ các giá trị nhân văn. Nhận định của Protagore: “Con người là thước đo của vạn vật” là châm ngôn trong pháp luật (максимой в праве). Tính chất nhân văn của pháp luật không chỉ thể hiện ở chỗ nó mở ra khả năng để mọi người tiếp cận với các phúc lợi, mà còn ở chỗ nó thực sự là công cụ bảo vệ an toàn xã hội.
Giá trị toàn cầu: những tiếp cận pháp quyền là cơ sở và công cụ duy nhất văn minh để giải quyết những vấn đề quốc tế và liên dân tộc. Là công cụ điều chỉnh nhà nước tổng thể, pháp luật là phương tiện hiệu quả đạt tới hòa bình và đồng thuận xã hội, loại bỏ những căng thẳng xã hội. Pháp luật là đòn bẩy để giải quyết các vấn đề kinh tế, sinh thái trong một quốc gia và trên bình diện toàn cầu.
Từ tri thức pháp luật, rồi ý thức pháp luật đến hành vi pháp luật là một quá trình trải qua nhiều giai đoạn trau dồi, thấm nhuần và hành động. Trong đó, đặc biệt, người cán bộ, công chức cần trải qua những giai đoạn để hướng tới cần biết những nguyên tắc và tiêu chuẩn căn bản mà họ phải tuân thủ trong công việc và đâu là giới hạn của các hành vi có thể được chấp nhận trên cơ sở những giá trị pháp lý của những tuyên bố chính xác, công khai về những tiêu chuẩn và nguyên tắc văn hóa - đạo đức trọng yếu, chi phối nền công vụ được nghiên cứu và xây dựng trên cơ sở của những giá trị công vụ đích thực. Tức là, nhà nước cần xây dựng những chính sách, trình tự và thông lệ quản lý, góp phần tăng cường phẩm chất đạo đức. Những quy phạm pháp luật để phục tùng thôi chưa đủ, bởi lẽ hành động sát biên với sự vi phạm đạo đức, mà không vi phạm pháp luật, có thể chấp nhận được, chưa hoàn toàn đáp ứng những yêu cầu của một xã hội nhân văn. Pháp luật mới chỉ là những tiêu chuẩn đạo đức tối thiểu, chưa phải là toàn bộ các giá trị của nền công vụ hướng tới các giá trị nhân văn - vì con người. Đạo đức công vụ là biểu hiện xuyên suốt toàn bộ nội dung các giá trị pháp luật công vụ. Giữa pháp luật với đạo đức công vụ có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, pháp luật như là phương tiện để thể chế hóa đạo đức công vụ.
Giá trị công vụ trên cơ sở tuân thủ pháp luật còn phải thể hiện rõ chịu trách nhiệm của họ trước nền công vụ, trong đó có trách nhiệm về những hành động của họ trước cấp trên và rộng hơn là chịu trách nhiệm trước công chúng. Trách nhiệm vừa là sự phục tùng những quy luật và nguyên tắc đạo đức; đồng thời phải đạt được hiệu quả xã hội và kinh tế. Bởi vậy, trách nhiệm giải trình, tức là “việc cơ quan nhà nước cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó” (Nghị định 90/2013/NĐ-CP ngày 08-8-2013 của Chính phủ quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao), cùng với các cơ chế phát hiện và điều tra độc lập các hành vi sai trái như tham nhũng là một phần thiết yếu trong nền tảng đạo đức. Cần có những thủ tục tin cậy và các nguồn lực cần thiết để giám sát, báo cáo và điều tra những vi phạm các quy định của nền công vụ; đồng thời phải có các biện pháp kỷ luật hay xử lý hành chính để ngăn chặn vi phạm đạo đức của công chức.
Các quy phạm của pháp luật về đạo đức là cơ sở pháp lý để điều chỉnh hành vi, cách xử sự của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ, khi mà thông qua đó, tạo nên thói quen chấp hành pháp luật, thói quen trong thực hiện bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiệm của cán bộ, công chức. Vì vậy, pháp luật là cơ sở pháp lý cho việc hình thành đạo đức công vụ và đánh giá đạo đức công vụ.
Tóm lại, pháp luật là công cụ, phương tiện để ghi nhận và bảo vệ đạo đức công vụ; pháp luật là nhân tố điều chỉnh bên ngoài đối với hành vi công vụ, còn đạo đức công vụ là sự điều chỉnh từ bên trong, nội tâm cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ; sự điều chỉnh của pháp luật đối với đạo đức công vụ thể hiện mối liên hệ của pháp luật đối với đạo đức công vụ. Từ đó, các giá trị của pháp luật sẽ tạo nên nền tảng thiết lập các giá trị nhân văn của nền công vụ của dân, do dân và vì dân.
Khi xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về công vụ, về cán bộ, công chức cần phải tạo cơ chế thuận lợi để các chuyên gia, các nhà văn hoá, các nhà nghiên cứu đạo đức tham gia đóng góp ý kiến, phản biện văn bản quy phạm pháp luật từ góc nhìn đạo đức. Qua đó, văn bản pháp luật về công vụ, cán bộ, công chức sẽ không chỉ đảm bảo tính hợp pháp mà còn được đảm bảo tính hợp lý, tính nhân văn, sự công bằng. Thực tế cho thấy, nếu các văn bản pháp luật về công vụ, công chức không phản ánh được những yếu tố đạo đức công vụ thì sẽ làm cho các tranh chấp hành chính gia tăng, mâu thuẫn giữa người dân và công quyền càng trở nên phức tạp và sâu sắc. Bởi vì trong hoạt động công vụ, nếu không bị ràng buộc bởi các chuẩn mực đạo đức công vụ - từ trong tâm khảm của con người - thì cán bộ, công chức, đặc biệt những người có chức vụ, quyền hạn dễ lợi dụng những hạn chế của pháp luật để có những hành vi vụ lợi, tham nhũng, nhũng nhiễu các cá nhân, tổ chức, hoặc là không thực hiện các nghĩa vụ thuộc bổn phận công vụ của mình một cách tự giác, gây thiệt hại cho Nhà nước, xã hội, cá nhân, tổ chức. Bên cạnh đó, ngoài những quy định chung đã được ban hành, cần phải kịp thời ban hành các văn bản quy định quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức trong từng cơ quan nhà nước, đặc biệt phải cụ thể hóa kịp thời những chuẩn mực ứng xử đã được quy định trong Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm và chống lãng phí. Mỗi ngành, mỗi nghề cần phải thể chế hóa các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp.
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công chức đóng một vai trò quan trọng trong việc vận động và phát triển nền công vụ của đất nước, là một trong những nhân tố cơ bản quyết định hình thành đội ngũ cán bộ, công chức mới có tri thức, có tư duy độc lập, kết hợp tri thức khoa học kỹ thuật, công nghệ với tri thức khoa học xã hội nhân văn, phát triển tự do và toàn diện, tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hành chính thành công và từng bước tạo lập nền công vụ nhằm mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chất lượng và hiệu quả của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được đánh giá không chỉ dựa trên những kết quả của hiệu ứng quản lý nhà nước trong các lĩnh vực kinh tế và chính sách xã hội, mà cần phải được xem xét từ kết quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với trình độ văn hóa nhân văn của đội ngũ và từng cán bộ, công chức./.
--------------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo:
1. GS, TS. Phạm Hồng Thái. Sự điều chỉnh của pháp luật về đạo đức công vụ ở Việt Nam.- http://luathoc.cafeluat.com
2. Bản sắc dân tộc của nền văn hóa Việt Nam trong thời kì đổi mới.- www.nhandan.org.vn/vanhoa
3. Nguyễn Xuân Phúc. Quyết tâm cải cách công vụ, công chức để xây dựng một nền hành chính phục vụ nhân dân. Cổng TTĐT Chính phủ.http://baodientu.chinhphu.vn
4. Духовные основы нравственного воспитания. Монография. - М.: Импэто, 1997 (Tiếng Nga).
Năm 2013: Từng bước giải quyết các vấn đề xã hội  (27/12/2013)
Mỹ ban hành đạo luật ngân sách  (27/12/2013)
Hợp tác với Việt Nam là ưu tiên quan trọng của Nga  (27/12/2013)
Lãnh đạo Việt Nam điện mừng Quốc khánh Nhật Bản  (27/12/2013)
Làm sâu sắc hơn quan hệ hữu nghị Việt Nam - Cam-pu-chia  (27/12/2013)
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên