Nhớ về Mùa Xuân toàn thắng
22:16, ngày 29-04-2012
TCCSĐT - 37 năm đã qua đi kể từ
ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Sự kiện lịch sử vĩ đại ấy không
chỉ ghi dấu ấn trong tâm khảm mỗi người Việt Nam mà còn trở thành niềm
tự hào và ký ức hào hùng của những cựu chiến binh năm xưa, những người
đã có những đóng góp xứng đáng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
1. Nhớ câu thơ của Bác Hồ
Năm tháng qua đi, nhớ lại quá trình kết thúc cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta không quên lời dự báo chiến lược của Bác Hồ trong bài thơ chúc Tết ngày 1-1-1969, bài thơ chúc Tết cuối cùng trước khi Người đi xa. Trong bài thơ này, Bác Hồ, nhà chiến lược thiên tài đã thiết kế một lộ trình hai bước để tiến tới thắng lợi cuối cùng. Điều thú vị là quá trình hai bước “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” được diễn đạt bằng một câu thơ cực kỳ giản dị, mộc mạc, dân giã. Ít có câu thơ Việt Nam nào mà những từ “cút” và “nhào” được dùng đắt đến như thế. Trận “Điện Biên trên không” cuối năm 1972 là trận quyết chiến chiến lược buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari về Việt Nam, rút hết quân Mỹ về nước. Đó là bước thứ nhất “đánh cho Mỹ cút”, tạo tiền đề cho bước thứ hai “đánh cho ngụy nhào”trong Mùa Xuân toàn thắng 1975
Nói đến chiến thắng B52, chúng ta nhớ lại tầm nhìn chiến lược của Bác. Từ rất sớm, năm 1962, Người đã căn dặn đồng chí Phùng Thế Tài, Tư lệnh quân chủng Phòng không - Không quân: ngay từ bây giờ, chú phải theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm đến loại máy bay này. Ngày 19-7-1965, đến thăm Quân chủng Phòng không - Không quân, Người đã chỉ rõ: dù chúng có B57, B52 hay “bê gì” đi nữa, ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng. Năm 1967, chỉ hai năm trước khi đi xa, Người còn dặn đồng chí Phùng Thế Tài (lúc này là Phó Tổng Tham mưu trưởng) rằng, sớm muộn rồi, đế quốc Mỹ cũng đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội.
Thực tế lịch sử đã diễn ra đúng như lời tiên đoán của Bác. Ngày 30-4-1975, quân và dân ta đã thực hiện trọn vẹn câu thơ Xuân của Bác: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.
Ngày đó, tôi là phái viên của Tổng cục Chính trị đi theo cánh quân phía Đông vào cho tới Dinh Độc lập. Năm tháng trôi qua, nhưng kỷ niệm về ngày lịch sử ấy vẫn hiện ra đậm nét trong ký ức tôi. Giữa không khí tưng bừng của ngày toàn thắng, chúng tôi đã có những giây phút xúc động chưa từng thấy, xúc động nhớ Bác Hồ. Trong tâm trí chúng tôi, “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân” và “Như có Bác Hồ trong ngày vui toàn thắng”.
2. Hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam
Sau Hiệp định Pari, có hai khả năng để thống nhất đất nước.
Khả năng thứ nhất: địch tôn trọng Hiệp định Pari, thành lập được Chính phủ ba thành phần ở miền Nam, nhân dân ta sẽ thống nhất Tổ quốc trong hòa bình.
Khả năng thứ hai: Mỹ Ngụy ngoan cố phá hoại Hiệp định, tiếp tục gây chiến. Ta phải tiến hành chiến tranh cách mạng gay go quyết liệt để giành thắng lợi hoàn toàn, thu giang sơn về một mối.
Thực tiễn trên chiến trường đã diễn ra theo khả năng thứ hai. Từ thực tiễn này, những ý đồ chiến lược của Bộ thống soái tối cao và của các cấp lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường đã được đề xuất, trở thành quyết sách chiến lược của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Đó là các Nghị quyết của Bộ Chính trị, của Quân ủy Trung ương, Nghị quyết 21 của Ban chấp hành Trung ương Đảng và các mệnh lệnh, chỉ thị từ Bộ thống soái tối cao chỉ đạo các chiến trường trong quá trình đánh cho ngụy nhào.
Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng (tháng 10-1973) là Nghị quyết hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam: “Cách mạng miền Nam phải tiếp tục tiến lên bằng con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công”. Đây là một quyết tâm chiến lược rất đúng đắn, rất sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Việt Nam sẽ không giống như Triều Tiên, Đông Đức.
Trước đó, do sớm nhận thức phương hướng chiến lược nói trên nên từ đầu năm 1973, Quân ủy Trung ương đã chỉ thị thành lập một Tổ trung tâm trong Bộ Tổng tham mưu có nhiệm vụ chuẩn bị Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Thời cơ chiến lược đã đến gần, nhưng giành thắng lợi bằng cách nào, đó là điều không đơn giản.
Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp trực tiếp nghe báo cáo kinh nghiệm kết thúc cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô, cuộc Chiến tranh giải phóng của nhân dân Trung Quốc và giai đoạn cuối cùng của một số cuộc chiến tranh khác.
Đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn nhấn mạnh khả năng phát động tổng khởi nghĩa kết hợp với tổng công kích, lấy địa bàn chủ yếu là thành thị để giải phóng miền Nam. Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp liên hệ với tình hình miền Nam, thấy không thể đặt tổng khởi nghĩa lên hàng đầu mà tất yếu phải có những trận tiến công lớn, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, tạo điều kiện đánh vào thành phố, vào sào huyệt chủ yếu của địch, kết hợp chặt chẽ với nổi dậy của quần chúng để kết thúc chiến tranh giành toàn thắng. Trải qua nhiều lần trao đổi ý kiến, đồng chí Lê Duẩn đồng ý.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đại tướng Văn Tiến Dũng đã chỉ đạo tổ Trung tâm nghiên cứu hoàn chỉnh kế hoạch chiến lược theo hướng đó. Đề cương Kế hoạch chiến lược được dự thảo nhiều lần. Biết bao vấn đề lớn về địch, về ta, về thời cơ, về cách đánh được đặt ra: Tiến công vào thời điểm nào? Sử dụng lực lượng ra sao? Mở tiến công tiêu diệt lớn thì hướng chính nên ở đâu? Đánh như thế nào để tiêu diệt lớn quân ngụy? Khả năng can thiệp của Mỹ như thế nào?...
Quân ủy Trung ương lúc đó nhận định: Dù thời cơ tạo ra có thuận lợi bao nhiêu thì cũng phải đánh sập ngụy quân ngụy quyền, đòn công kích phải đi trước một bước. Bất kể trong trường hợp nào, cũng phải nắm trong tay một lực lượng tập trung tương đối mạnh. Để có những quả đấm chủ lực mạnh, được sự đồng ý của Bộ Chính trị, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị thành lập các quân đoàn chủ lực cơ động. Trong 2 năm từ tháng 3-1973 đến tháng 3-1975 các quân đoàn 1,2,3,4 và Đoàn 232 tương đương quân đoàn đã lần lượt ra đời.
Kế hoạch chiến lược đã được các chỉ huy chiến trường góp ý kiến chỉnh lý nhiều lần trước khi trình Bộ Chính trị và được Bộ Chính trị thông qua trong cuộc họp từ ngày 18-12-1974 đến 2-1-1975.
Bước một (năm 1975): mở nhiều đợt tấn công và nổi dậy làm cho lực lượng địch suy yếu nhanh chóng, tạo điều kiện cho năm 1976. Hướng tiến công chiến lược đầu tiên là Tây Nguyên, cụ thể là Nam Tây Nguyên.
Bước hai (năm 1976): Tổng tiến công và nổi dậy đánh chiếm Sài Gòn, giành toàn thắng.
Trên cơ sở Kế hoạch cơ bản hai bước trên đây, Bộ Chính trị chỉ thị xây dựng một Kế hoạch thời cơ giải phóng miền Nam sớm. Bộ Chính trị nhận định: Năm 1975, tiến công quân sự mạnh tạo nên phong trào chính trị, thúc đẩy thời cơ, có thể tạo ra thời cơ mới, thậm chí có thể tạo ra thời cơ phát triển đột biến. Thời cơ chiến lược thường xuất hiện trong thời gian ngắn và không bao giờ đứng lâu tại chỗ, phải kịp thời phát hiện thời cơ, nắm bắt thời cơ, chớp lấy thời cơ để giành thắng lợi cao nhất.
Thực tiễn chiến trường năm 1975 đã diễn ra đúng như dự kiến của Bộ Chính trị. Kế hoạch chiến lược hai năm đã được hoàn thành chỉ trong 55 ngày đêm.
Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm chiến lược chính xác. Suy nghĩ về kết thúc chiến tranh đã được hình dung đúng ngay từ lúc khởi đầu. Vừa chắc thắng vừa nhanh, đó là nét tài tình và độc đáo trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Bộ Chính trị những ngày tháng đầu năm 1975 kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
3. Đòn điểm huyệt Buôn Ma Thuột
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, Giám đốc Học viện Quân sự cấp cao, nguyên là Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, người có dáng võ tướng với khuôn mặt rắn rỏi, đôi mắt sắc sảo dưới hàng lông mày hình lưỡi mác, trong một lần nói chuyện với chúng tôi (lúc đó là học viên lớp Bổ túc tại Học viện Quân sự cấp cao, sau này là Học viện Quốc phòng) đã chỉ rõ tầm nhìn chiến lược của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Ðại tướng đã từng nói: ai làm chủ được Tây Nguyên thì làm chủ được Đông Dương. Vì thế, Đại tướng đã điều Thượng tướng Hoàng Minh Thảo vào giữ cương vị Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên từ nhiều năm trước. Trong một lần triệu tập Thượng tướng Hoàng Minh Thảo ra Hà Nội tham khảo ý kiến, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã hỏi nếu đánh Tây Nguyên thì đánh ở đâu trước?. Thượng tướng Hoàng Minh Thảo trả lời: Nếu đánh Tây Nguyên thì đánh vào Buôn Ma Thuột trước. Vì Buôn Ma Thuột là thị xã lớn nhất, là hậu cứ của địch, là nơi địch yếu mà là hiểm yếu. Buôn Ma Thuột là địa bàn chiến lược cơ động, từ đây ta có thể phát triển theo ba hướng: đánh lên Tây Nguyên, đánh xuống đồng bằng ven biển, đánh vào miền Đông Nam Bộ, cắt chiến trường miền Nam làm đôi. Nguyên tắc chọn hướng tấn công chủ yếu là chọn nơi địch yếu mà là hiểm yếu. Những lời nói đó đã trở thành bài học sâu sắc đối với chúng tôi.
Chiến dịch Tây Nguyên là đòn tiến công chiến lược đầu tiên trong Kế hoạch chiến lược cơ bản đã được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương duyệt. Do tầm quan trọng của chiến dịch, Quân ủy Trung ương đã cử đồng chí Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng làm đại diện Quân ủy Trung ương trực tiếp tại mặt trận.
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo kể lại: Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đi một nước cờ thần tình: cắm hai quân đoàn ở hai đầu (quân đoàn 4 ở Đồng Nai, và quân đoàn 2 ở Huế) buộc địch phải điều động tổng dự bị chiến lược của chúng là hai sư đoàn dù và lính thủy đánh bộ ra hai đầu để giữ hai khu vực chiến lược quan trọng là Huế và Sài Gòn, làm cho thế trận phòng ngự của địch bị căng ra hai đầu, để hở quãng giữa là Tây Nguyên. Tiếp đó, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp lại tăng thêm lực lượng cho mặt trận Tây Nguyên khi điều Sư đoàn 316 từ Bắc vào và Sư đoàn 968 từ Lào sang. Tây Nguyên bước vào chiến dịch có lực lượng tới 4 sư đoàn và một số trung đoàn độc lập, lại có sự phối hợp của Sư đoàn 3 Sao vàng thuộc Quân khu 5, và Binh đoàn 559 Trường Sơn. Nhờ đó, Tây Nguyên trở thành một quân đoàn mạnh.
Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng một loạt hoạt động cài thế bao vây chia cắt, cô lập Buôn Ma Thuột. Ta dùng mưu tăng cường hoạt động nghi binh thu hút sự chú ý của địch về phía Bắc (Kontum) đánh trận “giả” ở Pleiku, địch mắc mưu, đưa Trung đoàn 45, đơn vị mạnh của Sư đoàn 23 Ngụy từ Buôn Ma Thuột lên Pleiku để sơ hở hướng Nam Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột. Thượng tướng Hoàng Minh Thảo phân tích: “Ta ghìm địch ở đầu mạnh (Bắc Tây Nguyên) để phá vỡ thế trận của địch ở đầu yếu là Nam Tây Nguyên. Đó là một thành công trong nghệ thuật dùng mưu”. Nói điều đó, đôi mắt của ông rực sáng.
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo cho biết, công tác chuẩn bị chiến đấu cũng rất công phu. Bộ đội ta đã san rừng, xẻ núi, bắc cầu, cưa cây sẵn nhưng chưa cho đổ, khi cần vượt qua thì đánh đổ cho nhanh. Tất cả đều phải bí mật. Hơn 3 sư đoàn bộ binh với nhiều trung đoàn pháo binh, xe tăng thiết giáp, nghĩa là hàng chục nghìn bộ đội với các loại vũ khí, xe cộ, lán trại, kho tàng, hành quân từ phía Bắc xuống Nam Tây Nguyên, áp sát Buôn Ma Thuột và Đức Lập, thậm chí ăn Tết rồi mới vào trận mà địch không hề hay biết. Ta vẫn giữ được bí mật tuyệt đối cho đến trước giờ G, đó là một thành công lớn trong sự chuẩn bị chiến đấu.
Hai giờ sáng ngày 10-3, ta nổ súng đánh Buôn Ma Thuột, Trung đoàn đặc công 198 và pháo phản lực (DKB, H12, rốc két) bắn vào sân bay và khu kho Mai Hắc Đế. Công binh cho đổ các cây cưa sẵn. Xe tăng, xe bọc thép bật đèn sáng trong đêm mở hết tốc lực tiến vào thành phố, đột phá, thọc sâu, vu hồi, trút bão lửa khiến địch không kịp trở tay. Vũ Thế Quang, Đại tá Sư phó Sư 23 của Ngụy, Nguyễn Trọng Luật, Đại tá, Chỉ huy trưởng Tiểu khu Đắc Lắc phải bỏ sở chỉ huy tháo chạy.
Trận Buôn Ma Thuột tiếp diễn với trận tiêu diệt lực lượng phản kích của địch. Trong hai ngày 12 và 13-3-1975, địch cho quân đổ bộ đường không xuống Đông Buôn Ma Thuột, Phước An và Tây sân bay Hòa Bình. Địch sa ngay vào các bẫy ta đã giăng sẵn. Các trung đoàn 44, 45, Sở chỉ huy nhẹ của Sư đoàn 23 ngụy lần lượt bị tiêu diệt. Cuộc phản kích của địch hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột bị đập tan.
Ngày 14-3-1975, Tổng thống Ngụy quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu đã họp với Thủ tướng Trần Thiện Kiêm, Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viện, các tướng Đặng Văn Quang, Phạm Văn Phú ở Cam Ranh, quyết định rút khỏi Kon Tum và Pleiku để bảo toàn lực lượng, thực hiện rút lui chiến lược, co cụm chiến lược. Nhưng địch không thể rút lui hay co cụm bởi quân ta với ý chí quyết thắng vượt lên trên sức lực của mỗi người, lập tức truy kích, tiêu diệt toàn bộ quân địch rút chạy trên đường số 7. Đường đã bị bỏ từ lâu, cầu hỏng, phà qua sông không có, hàng trăm xe pháo của địch ùn tắc, quân lính địch bỏ xe tháo chạy. Ta tiêu diệt và bắt sống toàn bộ cánh quân địch rút lui, thu hàng trăm xe pháo các loại. Kon Tum, Pleiku không đánh mà giải phóng.
Chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng đã tạo ra một bước phát triển đột biến trong tình hình chiến cuộc./. (Còn tiếp)
Năm qua thắng lợi vẻ vang
Năm nay tiền tuyến ắt càng thắng to
Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào
Tiến lên, chiến sĩ đồng bào
Bắc Nam xum họp xuân nào vui hơn
Năm nay tiền tuyến ắt càng thắng to
Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào
Tiến lên, chiến sĩ đồng bào
Bắc Nam xum họp xuân nào vui hơn
Năm tháng qua đi, nhớ lại quá trình kết thúc cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta không quên lời dự báo chiến lược của Bác Hồ trong bài thơ chúc Tết ngày 1-1-1969, bài thơ chúc Tết cuối cùng trước khi Người đi xa. Trong bài thơ này, Bác Hồ, nhà chiến lược thiên tài đã thiết kế một lộ trình hai bước để tiến tới thắng lợi cuối cùng. Điều thú vị là quá trình hai bước “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” được diễn đạt bằng một câu thơ cực kỳ giản dị, mộc mạc, dân giã. Ít có câu thơ Việt Nam nào mà những từ “cút” và “nhào” được dùng đắt đến như thế. Trận “Điện Biên trên không” cuối năm 1972 là trận quyết chiến chiến lược buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari về Việt Nam, rút hết quân Mỹ về nước. Đó là bước thứ nhất “đánh cho Mỹ cút”, tạo tiền đề cho bước thứ hai “đánh cho ngụy nhào”trong Mùa Xuân toàn thắng 1975
Nói đến chiến thắng B52, chúng ta nhớ lại tầm nhìn chiến lược của Bác. Từ rất sớm, năm 1962, Người đã căn dặn đồng chí Phùng Thế Tài, Tư lệnh quân chủng Phòng không - Không quân: ngay từ bây giờ, chú phải theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm đến loại máy bay này. Ngày 19-7-1965, đến thăm Quân chủng Phòng không - Không quân, Người đã chỉ rõ: dù chúng có B57, B52 hay “bê gì” đi nữa, ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng. Năm 1967, chỉ hai năm trước khi đi xa, Người còn dặn đồng chí Phùng Thế Tài (lúc này là Phó Tổng Tham mưu trưởng) rằng, sớm muộn rồi, đế quốc Mỹ cũng đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội.
Thực tế lịch sử đã diễn ra đúng như lời tiên đoán của Bác. Ngày 30-4-1975, quân và dân ta đã thực hiện trọn vẹn câu thơ Xuân của Bác: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.
Ngày đó, tôi là phái viên của Tổng cục Chính trị đi theo cánh quân phía Đông vào cho tới Dinh Độc lập. Năm tháng trôi qua, nhưng kỷ niệm về ngày lịch sử ấy vẫn hiện ra đậm nét trong ký ức tôi. Giữa không khí tưng bừng của ngày toàn thắng, chúng tôi đã có những giây phút xúc động chưa từng thấy, xúc động nhớ Bác Hồ. Trong tâm trí chúng tôi, “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân” và “Như có Bác Hồ trong ngày vui toàn thắng”.
2. Hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam
Sau Hiệp định Pari, có hai khả năng để thống nhất đất nước.
Khả năng thứ nhất: địch tôn trọng Hiệp định Pari, thành lập được Chính phủ ba thành phần ở miền Nam, nhân dân ta sẽ thống nhất Tổ quốc trong hòa bình.
Khả năng thứ hai: Mỹ Ngụy ngoan cố phá hoại Hiệp định, tiếp tục gây chiến. Ta phải tiến hành chiến tranh cách mạng gay go quyết liệt để giành thắng lợi hoàn toàn, thu giang sơn về một mối.
Thực tiễn trên chiến trường đã diễn ra theo khả năng thứ hai. Từ thực tiễn này, những ý đồ chiến lược của Bộ thống soái tối cao và của các cấp lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường đã được đề xuất, trở thành quyết sách chiến lược của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Đó là các Nghị quyết của Bộ Chính trị, của Quân ủy Trung ương, Nghị quyết 21 của Ban chấp hành Trung ương Đảng và các mệnh lệnh, chỉ thị từ Bộ thống soái tối cao chỉ đạo các chiến trường trong quá trình đánh cho ngụy nhào.
Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng (tháng 10-1973) là Nghị quyết hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam: “Cách mạng miền Nam phải tiếp tục tiến lên bằng con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công”. Đây là một quyết tâm chiến lược rất đúng đắn, rất sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Việt Nam sẽ không giống như Triều Tiên, Đông Đức.
Trước đó, do sớm nhận thức phương hướng chiến lược nói trên nên từ đầu năm 1973, Quân ủy Trung ương đã chỉ thị thành lập một Tổ trung tâm trong Bộ Tổng tham mưu có nhiệm vụ chuẩn bị Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Thời cơ chiến lược đã đến gần, nhưng giành thắng lợi bằng cách nào, đó là điều không đơn giản.
Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp trực tiếp nghe báo cáo kinh nghiệm kết thúc cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô, cuộc Chiến tranh giải phóng của nhân dân Trung Quốc và giai đoạn cuối cùng của một số cuộc chiến tranh khác.
Đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn nhấn mạnh khả năng phát động tổng khởi nghĩa kết hợp với tổng công kích, lấy địa bàn chủ yếu là thành thị để giải phóng miền Nam. Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp liên hệ với tình hình miền Nam, thấy không thể đặt tổng khởi nghĩa lên hàng đầu mà tất yếu phải có những trận tiến công lớn, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, tạo điều kiện đánh vào thành phố, vào sào huyệt chủ yếu của địch, kết hợp chặt chẽ với nổi dậy của quần chúng để kết thúc chiến tranh giành toàn thắng. Trải qua nhiều lần trao đổi ý kiến, đồng chí Lê Duẩn đồng ý.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đại tướng Văn Tiến Dũng đã chỉ đạo tổ Trung tâm nghiên cứu hoàn chỉnh kế hoạch chiến lược theo hướng đó. Đề cương Kế hoạch chiến lược được dự thảo nhiều lần. Biết bao vấn đề lớn về địch, về ta, về thời cơ, về cách đánh được đặt ra: Tiến công vào thời điểm nào? Sử dụng lực lượng ra sao? Mở tiến công tiêu diệt lớn thì hướng chính nên ở đâu? Đánh như thế nào để tiêu diệt lớn quân ngụy? Khả năng can thiệp của Mỹ như thế nào?...
Quân ủy Trung ương lúc đó nhận định: Dù thời cơ tạo ra có thuận lợi bao nhiêu thì cũng phải đánh sập ngụy quân ngụy quyền, đòn công kích phải đi trước một bước. Bất kể trong trường hợp nào, cũng phải nắm trong tay một lực lượng tập trung tương đối mạnh. Để có những quả đấm chủ lực mạnh, được sự đồng ý của Bộ Chính trị, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị thành lập các quân đoàn chủ lực cơ động. Trong 2 năm từ tháng 3-1973 đến tháng 3-1975 các quân đoàn 1,2,3,4 và Đoàn 232 tương đương quân đoàn đã lần lượt ra đời.
Kế hoạch chiến lược đã được các chỉ huy chiến trường góp ý kiến chỉnh lý nhiều lần trước khi trình Bộ Chính trị và được Bộ Chính trị thông qua trong cuộc họp từ ngày 18-12-1974 đến 2-1-1975.
Bước một (năm 1975): mở nhiều đợt tấn công và nổi dậy làm cho lực lượng địch suy yếu nhanh chóng, tạo điều kiện cho năm 1976. Hướng tiến công chiến lược đầu tiên là Tây Nguyên, cụ thể là Nam Tây Nguyên.
Bước hai (năm 1976): Tổng tiến công và nổi dậy đánh chiếm Sài Gòn, giành toàn thắng.
Trên cơ sở Kế hoạch cơ bản hai bước trên đây, Bộ Chính trị chỉ thị xây dựng một Kế hoạch thời cơ giải phóng miền Nam sớm. Bộ Chính trị nhận định: Năm 1975, tiến công quân sự mạnh tạo nên phong trào chính trị, thúc đẩy thời cơ, có thể tạo ra thời cơ mới, thậm chí có thể tạo ra thời cơ phát triển đột biến. Thời cơ chiến lược thường xuất hiện trong thời gian ngắn và không bao giờ đứng lâu tại chỗ, phải kịp thời phát hiện thời cơ, nắm bắt thời cơ, chớp lấy thời cơ để giành thắng lợi cao nhất.
Thực tiễn chiến trường năm 1975 đã diễn ra đúng như dự kiến của Bộ Chính trị. Kế hoạch chiến lược hai năm đã được hoàn thành chỉ trong 55 ngày đêm.
Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm chiến lược chính xác. Suy nghĩ về kết thúc chiến tranh đã được hình dung đúng ngay từ lúc khởi đầu. Vừa chắc thắng vừa nhanh, đó là nét tài tình và độc đáo trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Bộ Chính trị những ngày tháng đầu năm 1975 kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
3. Đòn điểm huyệt Buôn Ma Thuột
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, Giám đốc Học viện Quân sự cấp cao, nguyên là Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, người có dáng võ tướng với khuôn mặt rắn rỏi, đôi mắt sắc sảo dưới hàng lông mày hình lưỡi mác, trong một lần nói chuyện với chúng tôi (lúc đó là học viên lớp Bổ túc tại Học viện Quân sự cấp cao, sau này là Học viện Quốc phòng) đã chỉ rõ tầm nhìn chiến lược của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Ðại tướng đã từng nói: ai làm chủ được Tây Nguyên thì làm chủ được Đông Dương. Vì thế, Đại tướng đã điều Thượng tướng Hoàng Minh Thảo vào giữ cương vị Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên từ nhiều năm trước. Trong một lần triệu tập Thượng tướng Hoàng Minh Thảo ra Hà Nội tham khảo ý kiến, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã hỏi nếu đánh Tây Nguyên thì đánh ở đâu trước?. Thượng tướng Hoàng Minh Thảo trả lời: Nếu đánh Tây Nguyên thì đánh vào Buôn Ma Thuột trước. Vì Buôn Ma Thuột là thị xã lớn nhất, là hậu cứ của địch, là nơi địch yếu mà là hiểm yếu. Buôn Ma Thuột là địa bàn chiến lược cơ động, từ đây ta có thể phát triển theo ba hướng: đánh lên Tây Nguyên, đánh xuống đồng bằng ven biển, đánh vào miền Đông Nam Bộ, cắt chiến trường miền Nam làm đôi. Nguyên tắc chọn hướng tấn công chủ yếu là chọn nơi địch yếu mà là hiểm yếu. Những lời nói đó đã trở thành bài học sâu sắc đối với chúng tôi.
Chiến dịch Tây Nguyên là đòn tiến công chiến lược đầu tiên trong Kế hoạch chiến lược cơ bản đã được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương duyệt. Do tầm quan trọng của chiến dịch, Quân ủy Trung ương đã cử đồng chí Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng làm đại diện Quân ủy Trung ương trực tiếp tại mặt trận.
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo kể lại: Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đi một nước cờ thần tình: cắm hai quân đoàn ở hai đầu (quân đoàn 4 ở Đồng Nai, và quân đoàn 2 ở Huế) buộc địch phải điều động tổng dự bị chiến lược của chúng là hai sư đoàn dù và lính thủy đánh bộ ra hai đầu để giữ hai khu vực chiến lược quan trọng là Huế và Sài Gòn, làm cho thế trận phòng ngự của địch bị căng ra hai đầu, để hở quãng giữa là Tây Nguyên. Tiếp đó, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp lại tăng thêm lực lượng cho mặt trận Tây Nguyên khi điều Sư đoàn 316 từ Bắc vào và Sư đoàn 968 từ Lào sang. Tây Nguyên bước vào chiến dịch có lực lượng tới 4 sư đoàn và một số trung đoàn độc lập, lại có sự phối hợp của Sư đoàn 3 Sao vàng thuộc Quân khu 5, và Binh đoàn 559 Trường Sơn. Nhờ đó, Tây Nguyên trở thành một quân đoàn mạnh.
Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng một loạt hoạt động cài thế bao vây chia cắt, cô lập Buôn Ma Thuột. Ta dùng mưu tăng cường hoạt động nghi binh thu hút sự chú ý của địch về phía Bắc (Kontum) đánh trận “giả” ở Pleiku, địch mắc mưu, đưa Trung đoàn 45, đơn vị mạnh của Sư đoàn 23 Ngụy từ Buôn Ma Thuột lên Pleiku để sơ hở hướng Nam Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột. Thượng tướng Hoàng Minh Thảo phân tích: “Ta ghìm địch ở đầu mạnh (Bắc Tây Nguyên) để phá vỡ thế trận của địch ở đầu yếu là Nam Tây Nguyên. Đó là một thành công trong nghệ thuật dùng mưu”. Nói điều đó, đôi mắt của ông rực sáng.
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo cho biết, công tác chuẩn bị chiến đấu cũng rất công phu. Bộ đội ta đã san rừng, xẻ núi, bắc cầu, cưa cây sẵn nhưng chưa cho đổ, khi cần vượt qua thì đánh đổ cho nhanh. Tất cả đều phải bí mật. Hơn 3 sư đoàn bộ binh với nhiều trung đoàn pháo binh, xe tăng thiết giáp, nghĩa là hàng chục nghìn bộ đội với các loại vũ khí, xe cộ, lán trại, kho tàng, hành quân từ phía Bắc xuống Nam Tây Nguyên, áp sát Buôn Ma Thuột và Đức Lập, thậm chí ăn Tết rồi mới vào trận mà địch không hề hay biết. Ta vẫn giữ được bí mật tuyệt đối cho đến trước giờ G, đó là một thành công lớn trong sự chuẩn bị chiến đấu.
Hai giờ sáng ngày 10-3, ta nổ súng đánh Buôn Ma Thuột, Trung đoàn đặc công 198 và pháo phản lực (DKB, H12, rốc két) bắn vào sân bay và khu kho Mai Hắc Đế. Công binh cho đổ các cây cưa sẵn. Xe tăng, xe bọc thép bật đèn sáng trong đêm mở hết tốc lực tiến vào thành phố, đột phá, thọc sâu, vu hồi, trút bão lửa khiến địch không kịp trở tay. Vũ Thế Quang, Đại tá Sư phó Sư 23 của Ngụy, Nguyễn Trọng Luật, Đại tá, Chỉ huy trưởng Tiểu khu Đắc Lắc phải bỏ sở chỉ huy tháo chạy.
Trận Buôn Ma Thuột tiếp diễn với trận tiêu diệt lực lượng phản kích của địch. Trong hai ngày 12 và 13-3-1975, địch cho quân đổ bộ đường không xuống Đông Buôn Ma Thuột, Phước An và Tây sân bay Hòa Bình. Địch sa ngay vào các bẫy ta đã giăng sẵn. Các trung đoàn 44, 45, Sở chỉ huy nhẹ của Sư đoàn 23 ngụy lần lượt bị tiêu diệt. Cuộc phản kích của địch hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột bị đập tan.
Ngày 14-3-1975, Tổng thống Ngụy quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu đã họp với Thủ tướng Trần Thiện Kiêm, Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viện, các tướng Đặng Văn Quang, Phạm Văn Phú ở Cam Ranh, quyết định rút khỏi Kon Tum và Pleiku để bảo toàn lực lượng, thực hiện rút lui chiến lược, co cụm chiến lược. Nhưng địch không thể rút lui hay co cụm bởi quân ta với ý chí quyết thắng vượt lên trên sức lực của mỗi người, lập tức truy kích, tiêu diệt toàn bộ quân địch rút chạy trên đường số 7. Đường đã bị bỏ từ lâu, cầu hỏng, phà qua sông không có, hàng trăm xe pháo của địch ùn tắc, quân lính địch bỏ xe tháo chạy. Ta tiêu diệt và bắt sống toàn bộ cánh quân địch rút lui, thu hàng trăm xe pháo các loại. Kon Tum, Pleiku không đánh mà giải phóng.
Chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng đã tạo ra một bước phát triển đột biến trong tình hình chiến cuộc./. (Còn tiếp)
Hội nghị các bộ trưởng kinh tế ASEAN - Nhật Bản  (28/04/2012)
Hàng nghìn người biểu tình tại thủ đô Kuala Lumpur  (28/04/2012)
Mỹ đánh giá về Al-Qaeda sau 1 năm Bin Laden chết  (28/04/2012)
Liên hợp quốc tăng cường chống nạn buôn người trong du lịch  (28/04/2012)
- Kinh nghiệm quản lý thị trường vàng của một số quốc gia và hàm ý chính sách cho Việt Nam
- Thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài cho phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ
- Chiến lược triển khai quyền chỉ huy, kiểm soát biển của Mỹ tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương và một số tác động
- Một số chính sách lớn nhằm nâng cao hiệu quả ứng phó, giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống, an ninh mạng ở Việt Nam hiện nay
- Bảo đảm quyền lợi của người lao động trong mô hình kinh tế chia sẻ
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên