Phát triển kinh tế - xã hội đồng bằng sông Cửu Long một cách bền vững
Đồng bằng sông Cửu Long được
đánh giá là một châu thổ lớn và phì nhiêu vào bậc nhất của cả khu vực Đông Nam
Á. Tiềm năng đó được khai thác thành công là kết quả bước đầu của việc liên kết
hợp tác, trong đó hợp tác “bốn nhà” đóng vai trò quan trọng.
Nhiều đơn vị, địa phương ở ĐBSCL đã áp dụng thành công nhiều chương trình xã hội hóa như: công tác giống,
phòng trừ rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá trên lúa... để sản xuất hàng hóa
sạch và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thực tế phát triển kinh tế ở ĐBSCL đến nay vẫn có xu hướng là khai thác tiềm năng tự nhiên nông nghiệp. Việc
trồng lúa, cây ăn trái hay nuôi tôm, cá xuất khẩu ở ĐBSCL gần như đều tự phát.
Hai thế mạnh là gạo và thủy sản vẫn
chưa thực sự phát huy hết tiềm năng để thúc đẩy, đưa kinh tế các tỉnh trong khu
vực phát triển nhanh như yêu cầu đặt ra.
Kết quả đạt được trong những năm qua của ngành nông nghiệp, thủy sản vẫn
chưa tương xứng với tiềm năng. Sản xuất nông nghiệp quy mô còn nhỏ, manh mún;
chất lượng thấp, bảo quản sau thu hoạch còn nhiều bất cập, gây hao hụt lớn và
ảnh hưởng đến chất lượng nông sản, hàng nông nghiệp xuất khẩu chủ yếu ở dạng
thô chưa có những thương hiệu mạnh.
Đời sống của nông dân luôn bị đe dọa bởi điệp khúc “được mùa rớt giá”,
“được giá, hết hàng”. Nông dân hiện vẫn
nghèo và còn gặp nhiều khó khăn. Sản lượng nông nghiệp và xuất khẩu tăng
nhanh, thu nhập hộ nông dân không tăng theo tương xứng, thậm chí còn bị giảm ở
những vùng sản xuất khó khăn vì nhiễm phèn và ngập mặn. Trong sản xuất nông nghiệp,
thủy sản người nông dân trực tiếp sản xuất ra nông, thủy sản có lợi nhuận rất
thấp. Nếu không có giải pháp nâng cao lợi nhuận cho nông dân, ngành nông nghiệp
khó có thể phát triển bền vững.
Có thể nói nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở ĐBSCL đã có
những bước tiến rõ nét và có đóng góp gần 20% GDP của đất nước nhưng vẫn còn khá
nhiều thách thức. Thực tế cho thấy sự phát triển vùng ĐBSCL kém bền vững mặc dù
sản lượng nông nghiệp và xuất khẩu tăng nhanh. Khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị
và nông thôn ngày càng tăng.
Để ĐBSCL phát triển kinh tế bền vững trong bối cảnh hiện nay, các chuyên
gia cho rằng cần phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực và chú trọng tăng cường liên kết, hợp tác. Cho đến nay, phát triển kinh tế vùng
chưa khai thác được những lợi thế cạnh tranh thông qua việc khai thác chuỗi giá
trị trong sản xuất sản phẩm. Chủ trương liên kết “bốn nhà” được đánh giá sẽ tạo
ra hướng phát triển bền vững cho phát triển kinh tế, nông nghiệp ĐBSCL. Bởi sự
liên kết này khắc phục được tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, thực hiện tập trung
nguồn nguyên liệu, lôi kéo doanh nghiệp đầu tư và nối kết sản xuất của nông dân
với thị trường, thu hút nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ vào nông
thôn hiệu quả hơn. Sự liên kết các cơ quan, đơn vị khoa học, doanh nghiệp, nông
dân và sự liên kết giữa các địa phương là cơ hội rất lớn để khắc phục những yếu
kém trong nông nghiệp, nông dân và nông thôn; đồng thời, xây dựng nền tảng vững
chắc, phát huy lợi thế so sánh vùng để thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng
về vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn, phát triển kinh tế - xã hội vùng.
Sự phát triển nông nghiệp, thủy sản vùng kéo theo sự phát triển công nghiệp
chế biến nông sản và các ngành công nghiệp liên quan (công nghiệp cơ khí, công
nghiệp sửa chữa và đóng tàu thuyền, công nghiệp hóa chất phân bón, công nghiệp vật
liệu xây dựng…) cùng sự phát triển các ngành dịch vụ (thương mại, ngân hàng tín
dụng, vận tải, kho bãi, viễn thông, khoa học công
nghệ…).
Trong thời gian tới, nông nghiệp, nông dân và nông thôn ở ĐBSCL sẽ bị áp
lực lớn trong tiến trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, hậu WTO và biến đổi khí
hậu toàn cầu. Song cơ hội lớn đến với nông nghiệp, nông dân và nông thôn ở ĐBSCL,
là nhu cầu lương thực và giá cả nông, thủy sản trên thế giới tăng mạnh. Sự xuất
hiện của các thương nhân nước ngoài vào khu vực ĐBSCL thu mua lúa gạo sẽ có lợi
cho nông dân, việc này đã được cảnh báo cho các doanh nghiệp nước ta từ mấy năm
trước. Vì vậy, sự đồng thuận liên kết các cơ quan, đơn vị khoa học, doanh
nghiệp, nông dân và Nhà nước là cơ hội lớn để khắc phục những yếu kém; đồng
thời, xây dựng nền tảng vững chắc, phát huy lợi thế so sánh vùng để thực hiện
thắng lợi Nghị quyết của Đảng về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, phát triển
kinh tế - xã hội vùng.
Để nông nghiệp ĐBSCL phát triển bền vững, cần xác định rõ
mục tiêu, phương thức từ sản xuất đến kinh doanh vừa bảo đảm sản lượng vừa nâng
cao chất lượng. Muốn vậy, cần có cơ chế quản lý phù hợp, hiệu quả. Cụ thể:
Về phía Nhà nước, cần có cơ chế, chính sách thúc đẩy
sản xuất. Chính phủ, các bộ,
ngành Trung ương cần nhanh chóng tháo gỡ những “nút thắt” về chính sách, tạo
chuyển biến mạnh mẽ, tạo sức bật mới trong thực hiện Nghị quyết về nông nghiệp,
nông dân và nông thôn để phát triển kinh tế - xã hội vùng. Cần
thực thi các văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành thực hiện Nghị quyết số
63/NQ-CP về bảo đảm an ninh lương thực quốc gia với những chủ trương, chính
sách quan trọng như: chính sách khuyến khích nông dân giữ đất lúa, bảo đảm
người sản xuất có lãi trên 30%...; các hướng dẫn để nông dân và các doanh
nghiệp tiếp cận Quyết định số 63/2010/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn
thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản; hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam và các ngân hàng thương mại Trung ương thực hiện Nghị định số
41/2010/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn
để nông dân và các thành phần kinh tế khác chưa tiếp cận được nguồn tín dụng
phát triển sản xuất...
Nhà nước cần có biện pháp, chính sách tổ chức hợp tác xã
để có khả năng quy tụ, tích tụ ruộng đất theo quy mô lớn hơn nhằm tạo ra được
vùng sản xuất tập trung với các sản phẩm có tính cạnh tranh cao, đáp ứng được
chất lượng, sản lượng và tiến độ hợp đồng khi khách hàng yêu cầu.
Hỗ trợ nông dân về mặt kỹ thuật để có sản phẩm an toàn, chất lượng cao, giá
thành thấp; tổ chức kiểm tra nông dược tồn đọng trên sản phẩm thu hoạch, quản
lý công nghệ và tình trạng vệ sinh an toàn thực phẩm.
Hỗ trợ tín dụng giúp nông dân tiếp cận, thực hiện được các chương trình
vay vốn sản xuất.
Nhà nước tạo điều kiện, hướng dẫn, khuyến khích các doanh
nghiệp xây dựng thương hiệu nông sản đạt tiêu chuẩn quốc tế và có uy tín trên
thị trường thế giới.
Giúp các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, tham
gia các hội chợ quốc tế, xúc tiến thương mại, tạo nhiều cơ hội gặp gỡ, ký kết
các hợp đồng thương mại với các đối tác nước ngoài. Hỗ trợ nhà khoa học
có điều kiện nghiên cứu khoa học phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Cần đầu tư kết cấu hạ tầng, điện, thủy lợi, giao thông, xây cơ sở bảo quản nông sản. Việc hình
thành vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL sẽ
đóng góp tốt cho việc liên kết “bốn nhà”, tạo những điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng cứng và mềm cho việc gắn bó và cùng có lợi trong quá trình hợp tác.
Về phía doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần có chiến lược và
kế hoạch hoạt động phù hợp với thị trường trong nước và nước ngoài. Các doanh
nghiệp coi trọng xây dựng và phát triển thương hiệu của mình theo định hướng
cạnh tranh lành mạnh, mở rộng thị trường, nâng cao khả năng tiêu thụ.
Đặt
hàng ký hợp đồng với nông dân bao tiêu sản phẩm, bảo hiểm sản xuất với điều
kiện sản phẩm đúng chất lượng, đúng hạn, đúng giá. Các doanh nghiệp cần chú
trọng hợp tác với nông dân xây dựng vùng nguyên liệu cho chính mình, nếu không
vùng nguyên liệu nông sản có nguy cơ bị mất về tay các doanh nghiệp nước ngoài.
Về phía nhà khoa học, cần nghiên cứu đưa ra giải pháp tăng
sản lượng, chất lượng và giảm giá thành sản phẩm; nghiên cứu và chuyển giao quy trình kỹ
thuật canh tác công nghệ cao và hiệu quả cho nông dân; nghiên cứu và chuyển
giao cho nông dân máy móc, công cụ phù hợp với từng đối tượng cây trồng và điều
kiện sản xuất nông nghiệp của Việt Nam để nâng cao năng suất lao động, hạ giá
thành sản phẩm; chuyển giao công nghệ chế biến và bảo quản nông sản sau thu
hoạch cho nông dân nhằm nâng cao giá trị hàng hoá của sản phẩm. Huấn luyện đào
tạo nhà nông tiếp thu các tiến bộ về khoa học - kỹ thuật.
Về
phía nhà nông, không thể sản xuất nông hộ nhỏ mà phải hợp tác sản xuất để tạo vùng nguyên liệu chuyên canh có định hướng theo hợp đồng. Nông dân phải làm ăn theo hợp đồng, theo liên kết “bốn
nhà”, tôn trọng hợp đồng cả về số lượng, chất lượng
sản phẩm và thời gian cung ứng./.
Mỹ sẽ tiếp tục là bạn và đối tác của Việt Nam  (01/09/2011)
Chủ tịch Trung Quốc và Tổng thống Phi-líp-pin hội đàm tại Bắc Kinh  (01/09/2011)
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
- Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam