Hồng quân Liên Xô đã gánh chịu sự hy sinh và mất mát to lớn để cứu loài người khỏi nguy cơ chủ nghĩa phát xít. Vậy mà, ngay trong những thời khắc cuối cùng của Chiến tranh thế giới thứ II, một số thế lực ở phương Tây, từng là đồng minh và chịu ơn của Hồng quân Liên Xô, đã quay sang chuẩn bị một cuộc chiến tranh khác nhằm ngăn chặn trước "hoạ cộng sản" từ phía Liên Xô sau khi chiến tranh kết thúc. Trên thực tế, "chiến tranh lạnh" đã khởi đầu từ trong những làn khói lửa cuối cùng của cuộc "chiến tranh nóng" năm 1945.

Ngày 09-05-1945, nhân dân tiến bộ và yêu chuộng hoà bình trên thế giới, đứng đầu là Liên Xô vĩ đại, giành chiến thắng trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ II. Đã hơn 60 năm trôi qua kể từ ngày chủ nghĩa phát-xít bị đập tan, xoá bỏ họa diệt chủng đối với nhân loại, nhưng nhiều cứ liệu lịch sử về cuộc chiến tranh này tiếp tục được công bố, được nghiên cứu và làm sáng tỏ thêm vai trò của Hồng quân Liên Xô cũng như ý nghĩa lớn lao của chiến thắng này đối với hoà bình trên toàn thế giới.

Những cứ liệu công bố gần đây nhất chứng tỏ rằng, Chiến dịch Béc-lin trong giai đoạn cuối cùng của chiến tranh do Phương diện quân số 1 Bê-la-ru-xi-a của Hồng quân Liên Xô tiến hành dưới sự chỉ huy của tướng Giu-cốp, không chỉ có ý nghĩa về mặt quân sự là đập tan sào huyệt cuối cùng của phát-xít Đức mà còn có ý nghĩa chiến lược chính trị vô cùng quan trọng. Nó đã ngăn chặn và phá tan âm mưu bí mật và đầy phiêu lưu mạo hiểm của một số thế lực ở Mỹ và Anh chống Liên Xô, giúp loài người thoát khỏi nguy cơ của một cuộc Chiến tranh thế giới thứ III.

Rất nhiều văn kiện chính thức ở cấp độ quốc gia chứng tỏ, quyết định của Bộ chỉ huy quân sự Xô-viết mở Chiến dịch Béc-lin đã được xác định trong cuộc gặp cấp cao ở Y-an-ta từ ngày mồng 4 đến ngày 11-2-1945 giữa nguyên thủ ba nước: Liên Xô, do Xta-lin đại diện; Mỹ do Tổng thống Ru-dơ-ven đại diện và Anh do Thủ tướng Sớc-sin đại diện là “một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng”. Thế nhưng, mãi tới tháng 3-1945, Mỹ và Anh vẫn chưa mở Mặt trận thứ hai ở phía Tây như đã thoả thuận với Liên Xô. Các đơn vị quân Đức hoặc đầu hàng Hồng quân Liên Xô, hoặc thẳng tiến về phía Đông mà không vấp phải sự kháng cự nào đáng kể từ phía các đồng minh Mỹ và Anh. Trong tình thế đó, quân Đức áp dụng chiến thuật cố bám giữ các vị trí có thể bám được trên toàn tuyến mặt trận Xô - Đức, chờ thời cơ để cùng với quân Mỹ và Anh đánh trả “mối đe doạ từ phía Liên Xô” trên toàn bộ châu Âu. Vào thời điểm đó, Thủ tướng Anh Sớc-sin cho rằng Liên Xô đã làm xong vai trò của họ và giờ đây phương Tây cần lo liệu trước để trừ "hậu họa cộng sản" trong thời kỳ hậu chiến.

Tuy thống nhất để Liên Xô mở Chiến dịch Béc-lin, nhưng sau khi Hội nghị Y-an-ta kết thúc vào ngày 11-02-1945, thì đêm ngày 12, rạng sáng ngày 13-02-1945, máy bay chiến đấu của Mỹ và Anh ném bom ồ ạt vào các khu vực mà lẽ ra Hồng quân Liên Xô sẽ chiếm đóng theo thoả thuận ở Hội nghị Y-an-ta như Đờ-rét-đen (Đức), các xí nghiệp chủ yếu ở Xlô-va-ki-a và biến những khu vực đó thành tro bụi. Trước đó, năm 1944, máy bay ném bom của Anh và Mỹ đã tiến công các mỏ dầu ở Pơ-lô-ét-ti - khu vực từng cung cấp nhiên liệu cho nước Đức trong suốt cuộc chiến tranh -khi Hồng quân Liên Xô tiến gần đến trung tâm khai thác dầu này. Một trong những mục đích chủ yếu của các cuộc ném bom ở Đờ-ret-đen là phá trụi hoàn toàn các cây cầu đi qua sông En-bơ để cản bước rút lui của Hồng quân về phía Đông.

Tháng 4-1945, không quân Mỹ và Anh ném bom vào các khu vực ở thành phố Pốt-xđam thuộc quyền kiểm soát của Hồng quân Liên Xô, tàn phá thành phố Ô-ra-nen Buốc (Oranien-Burg), tại đó có Phòng thí nghiệm làm giàu u-ra-ni, để không một trang thiết bị thí nghiệm hoặc nhân viên kỹ thuật rơi vào tay Liên Xô. Như vậy, chính trong những ngày cuối cùng của chiến tranh, Liên Xô đã phải đương đầu với âm mưu "bài Xô" trong chính hàng ngũ đồng minh của mình. Đứng trước hành động lạ lùng đó của quân Mỹ và Anh, sau khi tiến đến ranh giới các khu vực được quyền kiểm soát theo quy định trong Hội nghị Y-an-ta, Xta-lin không mong đợi hành động phối hợp của đồng minh mà ra lệnh cho Hồng quân trong khi truy kích các đơn vị của Đức buộc phải vượt qua chiến tuyến đã từng được thỏa thuận trước đây với các đồng minh Mỹ và Anh. Xta-lin cam kết, sau khi kết thúc chiến sự, quân đội Liên Xô sẽ rút về phạm vi các khu vực phân công cho họ chiếm đóng như đã được Hội nghị Y-an-ta quy định.

Sau khi Tổng thống Ru-dơ-ven qua đời (ngày 12-4-1945), Thủ tướng Anh Sớc-sin ra sức thuyết phục và gây áp lực đối với Tổng thống Mỹ Tờ-ru-man rằng, không cần phải thực hiện các cam kết ở Tê-hê-ran và Y-an-ta bởi "thời cuộc lúc này đang chờ đợi những tình huống mới cần có những giải pháp khác". Đó là những giải pháp gì? Thủ tướng Anh Sớc-sin kiên quyết phản đối cuộc gặp thượng đỉnh ở Pốt-xđam như dự kiến hoặc tổ chức một cuộc hội nghị khác để thảo luận về chiến thắng và đánh giá tầm quan trọng của nhân dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh này. Theo tính toán của Thủ tướng Anh Sớc-sin, Phương Tây cần phải tận dụng cơ hội khi Liên Xô đã bị cạn kiệt sức lực, hậu phương bị phân tán, quân đội bị mệt mỏi, vũ khí trang bị hỏng hóc nhiều nhằm đưa ra yêu sách đối với Mát-xcơ-va, buộc họ phải nghe theo sự chỉ huy của người Anh, nếu không thì Liên Xô sẽ phải đối mặt với một cuộc chiến tranh nữa. Vào đầu tháng 4-1945, Thủ tướng Sớc-sin ra lệnh khẩn cấp cho quân đội Anh và Mỹ chuẩn bị chiến dịch mang tên “Vô hiệu hoá”.

Thời điểm bắt đầu chiến dịch này dự kiến vào ngày 01-6-1945, trong đó có sự tham gia của quân Mỹ, Anh, Ca-na-đa, quân đoàn viễn chinh Ba Lan và khoảng 10 đến 12 sư đoàn tàn quân phát-xít Đức. Đó chính là những sư đoàn không bị quân đồng minh Mỹ và Anh giải giáp ở phía nam Đan Mạch. Nhưng Tổng thống Mỹ Tờ-ru-man không ủng hộ tư tưởng đó của Thủ tướng Anh Sớc-sin, chí ít là do nguyên nhân này: dư luận xã hội Mỹ chưa sẵn sàng chấp nhận một sự phản bội đồng minh và bạn bè bỉ ổi đến mức như vậy.

Trong khi đó, các tướng Mỹ kiên quyết đi theo quan điểm tiếp tục liên minh với Liên Xô cho tới khi Nhật Bản đầu hàng. Ngoài ra, các nhà quân sự của Mỹ và Anh cho rằng, gây chiến với Liên Xô thì dễ nhưng kết thúc chiến tranh với họ thì khó khăn hơn nhiều. Đối với các tướng Mỹ và Anh, đây là hành động vô cùng mạo hiểm. Thông qua mạng lưới tình báo chiến lược nắm rõ ý đồ của Mỹ và Anh, Bộ chỉ huy tối cao của Liên Xô quyết định khẩn trương mở Chiến dịch Béc-lin như là sự đáp trả với kế hoạch mở chiến dịch "Vô hiệu hoá" của Thủ tướng Anh Sớc-sin. Có thể nói, Xta-lin là tác giả kịch bản chính trị của chiến dịch Béc-lin, còn người thực hiện và là Tổng chỉ huy Chiến dịch là tướng Giu-cốp. Lúc đó, Nguyên soái Liên Xô Rô-cô-xốp-xki (Rokossovski) đã tiến đến Béc-lin gần hơn Giu-cốp và đã gần như chuẩn bị chiếm được thành phố này. Nhưng Xta-lin lại giao một nhiệm vụ khác cho Rô-cô-xốp-xki. Rất có thể, Xta-lin chọn Giu-cốp vì ông là một tướng có tính cách cương quyết hơn, thích hợp cho một chiến dịch quân sự đặc biệt quan trọng như Chiến dịch Béc-lin.

Tiến công nhanh chóng và công phá Béc-lin, giương cao ngọn cờ chiến thắng trên nóc nhà Quốc hội Đức không chỉ là biểu tượng chính trị mà còn là chiến dịch quân sự có ý nghĩa quyết định kết thúc chiến tranh trên mặt trận Xô - Đức. Đối với Hồng quân Liên Xô, nhiệm vụ có tính nguyên tắc là phải tiến vào sào huyện cuối cùng của địch và kết thúc cuộc chiến tranh khó khăn nhất trong lịch sử nước Nga. Chính từ Béc-lin đã phát sinh và phát triển chủ nghĩa phát xít tàn bạo, gieo rắc sự đau khổ vô tận đối với nhân dân Liên Xô, nhân dân châu Âu và toàn nhân loại. Chính phủ Liên Xô muốn ứng xử với nước Đức như là một quốc gia gây chiến tranh và phải gánh chịu thất bại. Nhưng không một ai muốn biến sự thất bại của họ thành sự trừng phạt. Xta-lin thực hiện khẩu hiệu ông đề ra từ năm 1941 là: Hít-le lên nắm chính quyền và sẽ phải ra đi, còn nước Đức và nhân dân Đức thì vẫn còn lại mãi mãi.

Chiến dịch đánh chiếm Béc-lin của Hồng quân Liên Xô đã làm tan biến tham vọng của những kẻ phiêu lưu. Thí dụ, tướng Mỹ Pát-tôn đã từng đưa ra ý tưởng là ra lệnh cho quân Mỹ không dừng lại trên bờ sông En-bơ mà là tiến thẳng về phía Ba Lan, vượt qua U-crai-na và tiến về Xta-lin-grat để kết thúc chiến tranh ở đó, nơi Hít-le đã bị thất bại.
 
Ở Mỹ, cái chết của Tổng thống Ru-dơ-ven ngay lập tức làm thay đổi chính sách của Oa-sinh-tơn. Trong bài phát biểu cuối cùng trước Quốc hội ngày 25-3-1945, Tổng thống Ru-dơ-ven đã từng căn dặn người Mỹ cần phải thực hiện trách nhiệm hợp tác quốc tế đã từng thoả thuận ở Tê-hê-ran và Y-an-ta. Tuy nhiên, Tổng thống kế nhiệm ông là Tờ-ru-man không bận tâm đến di chúc chính trị đó. Trong cuộc họp ở Nhà Trắng ngày 23-4-1945, lần đầu tiên Tờ-ru-man tuyên bố chủ trương chuẩn bị đón nhận tương lai trước mắt là nước Đức sẽ đầu hàng, trong đó con đường của Liên Xô và Mỹ sẽ đi về hai ngả ngược nhau.

Theo Tờ-ru-man, nhiệm vụ hàng đầu lúc đó là phải xây dựng "một thế giới kiểu Mỹ". Tờ-ru-man đã tiến gần đến chỗ cắt đứt sự hợp tác với Mat-xcơ-va. Lẽ ra điều đó đã có thể xảy ra nếu các nhà quân sự Mỹ không ngăn cản Tờ-ru-man. Theo các tướng Mỹ, trong trường hợp cắt đứt quan hệ với Liên Xô thì người Mỹ buộc phải đơn phương chiến đấu với Nhật Bản. Theo đánh giá của các tướng lĩnh ở Lầu Năm góc, nước Mỹ phải trả giá 1-2 triệu sinh mạng quân nhân Mỹ trong cuộc chiến với Nhật Bản. Tuy nhiên, ngay sau khi Béc-lin thất thủ, quan hệ liên minh Xô - Mỹ đã tan thành mây khói. Tướng Mỹ Mác-san (Marshall) đã từ chối tham gia cuộc duyệt binh chiến thắng của đồng minh ở Béc-lin, mà lẽ ra tướng Mác-san cùng với tướng Giu-cốp sẽ chỉ huy cuộc duyệt binh chiến thắng này. Mặc dù vậy, cuộc duyệt binh Chiến thắng ở Béc-lin vẫn được tiến hành vào ngày 07-05-1945 do Giu-cốp chỉ huy. Còn ở Mát-xcơ-va, cuộc duyệt binh Chiến thắng được tổ chức vào ngày 24-06-1945./.