Triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2015

Hương Anh
16:56, ngày 14-01-2015

TCCSĐT - Ngày 13-01-2015 tại Oa-sinh tơn (Mỹ), Ngân hàng Thế giới công bố báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu, theo đó, kinh tế toàn cầu sẽ cải thiện trong năm 2015, nhưng các xu hướng trái chiều sẽ gây rủi ro đối với tăng trưởng.

Kinh tế thế giới phục hồi nhưng chưa bền vững

Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), sau năm 2014 nhiều thất vọng, tăng trưởng ở các nước đang phát triển năm 2015 sẽ tăng nhẹ, một phần do giá dầu giảm, nền kinh tế Mỹ phát triển mạnh mẽ hơn, lãi suất toàn cầu tiếp tục ở mức thấp và ít rào cản tăng trưởng hơn ở một số thị trường lớn thuộc khu vực mới nổi.

Sau mức tăng trưởng ước đạt 2,6% năm 2014, tăng trưởng kinh tế toàn cầu được dự báo đạt 3% năm 2015, 3,3% năm 2016 và 3,2% năm 2017, trong đó tăng trưởng của các nước đang phát triển dự báo sẽ tăng 4,8%, 5,3% và 5,4% trong các năm tương ứng.

Phát biểu của ông Gim Châng Kim (Jim Yong Kim), Chủ tịch WB nêu rõ: “Trong môi trường kinh tế đầy biến động này, các nước đang phát triển cần sử dụng nguồn lực một cách khôn ngoan để hỗ trợ cho các chương trình xã hội với trọng tâm là người nghèo, đồng thời tiến hành cải cách cơ cấu đầu tư vào con người. Điều tối quan trọng là các nước cần phá bỏ mọi rào cản không cần thiết cho đầu tư vào khối tư nhân. Cho đến nay, khối tư nhân vẫn là nguồn tạo việc làm lớn nhất và có thể giúp đưa hàng trăm triệu người thoát nghèo”.

Đằng sau sự phục hồi kinh tế mong manh này là các xu hướng trái chiều ngày càng mạnh, ảnh hưởng sâu sắc đến tăng trưởng toàn cầu. Các hoạt động ở Mỹ và Anh đang có đà đi lên khi thị trường lao động đang hồi phục và có chính sách tiền tệ phù hợp. Nhưng ở châu Âu và Nhật Bản, việc phục hồi kinh tế vẫn chưa tạo được ấn tượng rõ rệt khi tàn dư của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế vẫn còn dai dẳng. Trong khi đó, Trung Quốc sẽ trải qua cuộc suy giảm tăng trưởng kinh tế có kiểm soát thận trọng, tăng trưởng tuy giảm nhưng vẫn ở mức khá cao là 7,1% trong năm 2015, 7% năm 2016 và 6,9% năm 2017.

Rủi ro của viễn cảnh kinh tế thế giới vẫn có chiều hướng bất lợi do sự chi phối của bốn yếu tố: Thứ nhất, thương mại toàn cầu đang suy giảm. Thứ hai, khả năng biến động thị trường tài chính do lãi suất ở các nền kinh tế chủ đạo tăng ở các mốc thời gian không dự đoán được. Thứ ba, giá dầu thấp gây áp lực đến cân đối tài chính ở các nước sản xuất dầu. Thứ tư, nguy cơ suy thoái hoặc giảm phát kéo dài ở châu Âu và Nhật Bản.

Ông K. Ba-xu (Kaushik Basu), chuyên gia kinh tế trưởng, Phó Chủ tịch cao cấp WB nhận định: “Đáng lo ngại là sự khôi phục kinh tế bị chững lại ở một số nền kinh tế thu nhập cao và thậm chí ở một số nước thu nhập thấp có lẽ là triệu chứng của tình trạng bất ổn cơ cấu sâu sắc hơn… Giá dầu thấp hơn và theo dự tính tiếp tục giảm trong năm 2015 sẽ góp phần giảm lạm phát trên toàn thế giới và có lẽ sẽ kìm hãm hiện tượng tăng lãi suất đột biến ở các nước giàu. Điều này sẽ mở ra thời điểm cơ hội cho các nước nhập khẩu dầu, như Trung Quốc và Ấn Độ”.

Do thị trường lao động đang dần phục hồi, ngân sách ít bị thắt chặt hơn, giá cả hàng hóa hợp lý và chi phí tài chính ở mức thấp, tăng trưởng ở nhóm các nước thu nhập cao dự báo sẽ tăng nhẹ khoảng 2,2% năm 2015 (từ mức 1,8% năm 2014) và tăng thêm khoảng 2,3% giai đoạn 2016 - 2017. Năm 2015, tăng trưởng ở Mỹ dự báo là 3,2% (so với 2,4% năm 2014), trước khi giảm nhẹ xuống 3% và 2,4% năm 2016 và 2017. Ở châu Âu, tình trạng lạm phát thấp đáng lo ngại sẽ tiếp tục kéo dài. Dự báo, tăng trưởng của khu vực trong năm 2015 là 1,1% (0,8% năm 2014), tăng 1,6% giai đoạn 2016 - 2017. Ở Nhật Bản, tăng trưởng sẽ lên đến 1,2% năm 2015 (năm 2014 chỉ đạt mức 0,2%), và 1,6% năm 2016.

Năm 2015, dòng chảy thương mại trên thế giới dự báo vẫn không hoạt động hiệu quả. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế thế giới, thương mại toàn cầu suy giảm, tăng trưởng năm 2013 và 2014 chỉ đạt dưới 4%, thấp hơn rất nhiều so với mức tăng trưởng 7% hằng năm của thời kỳ tiền khủng hoảng. Phân tích trong Báo cáo đã chỉ ra rằng, suy thoái kinh tế một phần là do nhu cầu giảm và do độ nhạy của thương mại thế giới dường như không theo kịp những thay đổi của hoạt động toàn cầu. Thay đổi trong chuỗi giá trị toàn cầu và sự dịch chuyển của nhu cầu nhập khẩu đã góp phần làm giảm độ nhạy của thương mại trước sự tăng trưởng.

Giá cả hàng hóa theo dự đoán tăng không đáng kể trong năm 2015. Theo một chương trong báo cáo, giá dầu giảm mạnh bất thường trong 6 tháng cuối năm 2014 có thể đã làm giảm đáng kể áp lực lạm phát và góp phần cải thiện cán cân tài khoản và tài chính hiện tại ở các nước đang phát triển xuất khẩu dầu.

Ông A. Cô-xê (Ayhan Kose), Giám đốc báo cáo Triển vọng phát triển của WB cho rằng: “Giá dầu thấp sẽ dẫn đến sự dịch chuyển quy mô thu nhập thực từ các nước đang phát triển xuất khẩu dầu sang các nước đang phát triển nhập khẩu dầu. Đối với cả nước xuất khẩu và nước nhập khẩu, giá dầu thấp là cơ hội để tiến hành cải cách giúp tăng nguồn lực tài chính và đẩy mạnh các mục tiêu về môi trường”. Trong số các nước lớn thuộc nhóm thu nhập trung bình, hưởng lợi từ giá dầu thấp là Ấn Độ. Năm 2015, tăng trưởng của nước này dự tính lên đến 6,4% (từ mốc 5,6% năm 2014), tăng 7% giai đoạn 2016 - 2017. Ở Bra-xin, In-đô-nê-xi-a, Nam Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ, sự sụt giảm giá dầu giúp giảm lạm phát và thâm hụt tài khoản vãng lai, một nguyên nhân chính của tình trạng dễ bị tổn thương ở nhiều nước trong nhóm thu nhập thấp. Tuy nhiên, duy trì giá dầu thấp sẽ làm suy yếu hoạt động tại các nước xuất khẩu dầu mỏ.

Ngược lại với nhóm các nước thu nhập trung bình, năm 2014, hoạt động kinh tế ở nhóm các nước thu nhập thấp được đẩy mạnh do tăng đầu tư công, phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhiều thành tựu khả quan và có dòng vốn đáng kể. Giai đoạn 2015 - 2017, tăng trưởng ở các nước có thu nhập thấp theo dự tính vẫn ở mức cao là 6% trong khi đó, việc điều tiết giá dầu và các hàng hóa khác sẽ kìm hãm sự tăng trưởng ở các nước thu nhập thấp xuất khẩu hàng hóa. Ông Ph. Ô-xo-gơ (Franziska Ohnsorge), tác giả chính của Báo cáo cho rằng, rủi ro của nền kinh tế toàn cầu là rất lớn. Các nước có khung chính sách tương đối tin cậy hơn và có nhà nước theo hướng cải cách sẽ ở vị thế tốt hơn trong việc vượt qua thách thức của năm 2015.

Đông Á - Thái Bình Dương: còn nhiều dư địa tài khóa

Đông Á - Thái Bình Dương vẫn là khu vực phát triển nhanh nhất thế giới năm 2014 với tỷ lệ tăng trưởng 6,9%, chỉ kém 0,3 điểm phần trăm so với 2013. Tại Trung Quốc, các biện pháp chính sách đã làm giảm dần tốc độ tăng trưởng xuống còn 7,4% trong năm 2014 so với 7,7% năm 2013. Đó là các biện pháp kiểm soát những yếu kém tích tụ trong khu vực tài chính bằng cách giảm tăng trưởng tín dụng, các biện pháp hạn chế trong một số ngành hoạt động quá công suất hoặc các ngành gây ô nhiễm môi trường…

Tại các nước khác trong khu vực, chính sách thắt chặt và bất ổn chính trị tiếp tục ảnh hưởng tới tăng trưởng tín dụng và đầu tư. Ngân hàng Trung ương In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a đã tăng lãi suất chính sách nhằm hạn chế kỳ vọng lạm phát dự tính xảy ra sau khi cắt giảm trợ giá nhiên liệu trong năm 2014. Mông Cổ và Phi-líp-pin cũng tăng lãi suất chính sách nhằm kiểm soát áp lực giá cả thể hiện hạn chế về năng lực sản xuất. Trong khi đó, Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam giảm lãi suất nhằm hỗ trợ sản xuất trong bối cảnh lạm phát giảm đe dọa gây ra giảm phát. Cân đối tài khóa một số nước suy giảm do tăng trưởng bị chậm lại. Tuy tăng trưởng đầu tư có giảm hơn so với mức sau khủng hoảng nhưng tăng cầu lao động, tăng lượng kiều hối và thị trường vốn hoạt động mạnh đã làm tăng lượng tiêu dùng.

Dự đoán tăng trưởng khu vực sẽ giảm xuống còn 6,7% năm 2015 và duy trì mức đó trong kỳ trung hạn do tổng sản lượng trong khu vực, trừ Trung Quốc. Tại Trung Quốc, cải cách cơ cấu, giảm kích thích tăng trưởng và thắt chặt tín dụng sẽ làm giảm mức đầu tư và kéo tỷ lệ tăng trưởng xuống còn 6,9% vào năm 2017. Dự đoán hoạt động sản xuất tại các nước khác trong khu vực sẽ tăng nhẹ do xuất khẩu tăng, bất ổn chính trị tại Thái Lan giảm và do đầu tư tăng trở lại, nhất là tại In-đô-nê-xi-a và Phi-líp-pin. Tăng cầu từ các nước thu nhập cao cũng tác động tích cực đối với khu vực do mức độ hội nhập cao vào chuỗi giá trị toàn cầu. Cán cân thương mại được cải thiện do giá hàng hóa giảm và viễn cảnh tăng trưởng thuận tiện sẽ kích thích luồng vốn vào khu vực (trừ những nước xuất khẩu hàng hóa như In-đô-nê-xi-a, Mông Cổ và ở một mức độ nào đó Ma-lai-xi-a). Không kể Trung Quốc, tăng trưởng toàn khu vực dự đoán sẽ đạt mức 5,2% năm 2015, tăng lên 5,4% và 5,5% trong năm 2016 và 2017.

Tuy nhiên vẫn còn một số rủi ro. Trong đó, những rủi ro chính phát sinh từ mức độ tăng trưởng không như mong muốn trên toàn cầu và mức độ sụt giảm nhanh hơn dự tính tại Trung Quốc, mặc dù với một xác xuất nhỏ. Ngoài ra, viễn cảnh khu vực cũng bị đe dọa bởi nguy cơ tình hình tài chính toàn cầu bị thắt chặt.

Mặc dù khó có khả năng xảy ra nhưng nếu không giải quyết được những yếu kém trong khu vực tài chính Trung Quốc thì hoạt động sản xuất sẽ bị ảnh hưởng. Tăng trưởng chậm lại tại Trung Quốc sẽ ảnh hưởng đối với toàn khu vực bởi quy mô thị trường và mức độ liên kết chặt chẽ về thương mại và đầu tư. Do giá hàng hóa có xu hướng giảm nên các nước xuất khẩu hàng hóa như In-đô-nê-xi-a và Mông Cổ sẽ bị tác động kép.

Mức độ mỏng manh của thị trường tài chính, hoặc điều kiện tài chính toàn cầu bị thắt chặt đột ngột có thể làm giảm mạnh hoặc đảo ngược dòng vốn và gây sức ép đáng kể lên một số nước. Điều kiện tài chính bên ngoài bị thắt chặt sẽ dẫn đến tăng lãi suất trong nước. Như vậy, lượng thanh toán nợ sẽ tăng và tác động lên bảng cân đối của ngân hàng, doanh nghiệp và các hộ gia đình. Nếu nợ xấu tăng lên sẽ làm yếu hệ thống ngân hàng và buộc người ta đặt câu hỏi về sự ổn định tài chính. Những nước có truyền thống có tỷ lệ trả nợ khu vực tư nhân cao do nợ tích tụ nhanh kể từ khi xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu sẽ chịu nhiều rủi ro hơn./.