Giáo dục đào tạo với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay
TCCSĐT - Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn toàn cầu hóa, lợi thế so sánh của sự phát triển kinh tế đang chuyển từ yếu tố giàu tài nguyên, nhiều tiền vốn, giá nhân công rẻ sang lợi thế về nguồn nhân lực chất lượng cao. Vấn đề đặt ra đối với Việt Nam là đổi mới cơ chế giáo dục đào tạo nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Nguồn nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực là một yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất. Theo cách hiểu thông thường, nguồn nhân lực là nguồn lực con người của một quốc gia hay một vùng lãnh thổ, một địa phương nhất định đang và có khả năng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Có quan điểm cho rằng, nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích lũy được có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai. Một quan điểm khác lại cho rằng, nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao động được chuẩn bị ở các mức độ khác nhau sẵn sàng tham gia vào một công việc lao động nào đó, đó là những người lao động có kỹ năng đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với quan điểm về nguồn nhân lực như vậy nên đã có nhiều cách hiểu khác nhau về nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo cách hiểu mang tính chất định tính thì nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận của lực lượng lao động, có khả năng đáp ứng những yêu cầu phức tạp của công việc, từ đó tạo ra năng suất và hiệu quả cao trong công việc, có những đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng và phát triển của cộng đồng cũng như của toàn xã hội. Nếu tiếp cận theo cách hiểu mang tính chất định lượng thì nguồn nhân lực chất lượng cao được hiểu theo các cách khác nhau: Một là, nguồn nhân lực chất lượng cao là những người lao động đã qua đào tạo, có bằng cấp và trình độ chuyên môn kỹ thuật. Trên thực tế, khái niệm “lao động qua đào tạo” rất phức tạp vì hiện nay có rất nhiều hình thức và phương pháp đào tạo khác nhau, từ học nghề ngắn hạn đến cao đẳng, đại học đều có thể được xem là “lao động qua đào tạo”. Như vậy, nếu coi nguồn nhân lực chất lượng cao là lao động qua đào tạo sẽ dẫn đến một sự phân hóa lớn về trình độ của nguồn nhân lực này. Hai là, một cách hiểu theo định lượng hẹp hơn là coi nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực có trình độ đại học, cao đẳng, nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý và hoạch định chính sách, nguồn nhân lực khoa học, công nghệ, đội ngũ giảng viên các trường đại học, cao đẳng… Thực tế, có một cách hiểu hẹp hơn nữa là chỉ xem những người có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ mới là nguồn nhân lực chất lượng cao. Có thể thấy, về mặt khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao chưa có sự thống nhất. Cả hai cách hiểu mang tính định tính và định lượng đều có những hạn chế nhất định. Cách hiểu về mặt định tính sẽ dẫn đến khó khăn trong việc thống kê nguồn nhân lực chất lượng cao. Cách hiểu về mặt định lượng sẽ không tính đến những nghệ nhân, những người có khả năng đặc biệt làm được những công việc mà ít người làm được nhưng lại không qua trường lớp đào tạo nào. Mặt khác, không phải bất kỳ người lao động nào đã qua đào tạo đều có khả năng đáp ứng được yêu cầu của các công việc tương ứng với trình độ đào tạo nhưng vẫn được xem là nhân lực có chất lượng cao. Vì vậy, theo chúng tôi nên hiểu nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận của nguồn nhân lực nói chung, nhưng là một bộ phận đặc biệt, bao gồm những người có trình độ học vấn từ cao đẳng, đại học trở lên đang làm việc trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, có những đóng góp thiết thực và hiệu quả cho sự phát triển bền vững của cộng đồng nói riêng và toàn xã hội nói chung. Với cách hiểu như vậy, có thể đưa ra 6 tiêu chí để đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao đó là:
- Khả năng thích ứng nhanh nhất với môi trường lao động và với tiến bộ khoa học công nghệ mới, với năng lực chuyên môn và trình độ thành thạo nghiệp vụ cao.
- Có ý chí vượt khó, bền bỉ trong công việc, có năng lực kiềm chế bản thân...
- Có đạo đức nghề nghiệp thể hiện qua tinh thần kỷ luật, ý thức trách nhiệm, tinh thần dân chủ, hợp tác và ý thức về tập thể, vì cộng đồng cao.
- Có kỹ năng làm việc nhóm, khả năng thay đổi, thích ứng nhanh, hội nhập cao, có sáng kiến đột phá, sáng tạo trong công việc...
- Có năng lực thực tế tạo nên kết quả cao và vượt trội trong công việc, có năng lực cạnh tranh, có đóng góp thực sự hữu ích cho xã hội...
Thực trạng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay
Hiện tại, Việt Nam đang sở hữu một nguồn nhân lực khá dồi dào về số lượng nhưng lại rất hạn chế về mặt chất lượng. Cả nước có khoảng 14.000 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.432 giáo sư; 7.750 phó giáo sư; 16.000 thạc sĩ; 30.000 cán bộ hoạt động khoa học và công nghệ; 52.129 giảng viên đại học, cao đẳng, trong số đó 49% giảng viên đại học có trình độ thạc sĩ trở lên. Cả nước hiện có 14.000 giáo viên trung cấp chuyên nghiệp; 11.200 giáo viên dạy nghề và 925.000 giáo viên hệ phổ thông. Trong số 9.000 tiến sĩ được điều tra thì có 70% giữ chức vụ quản lý, chỉ có 30% thực sự làm công tác chuyên môn. Theo kết quả điều tra gần đây, hiện tại ở nước ta 63% số sinh viên tốt nghiệp đại học chưa có việc làm, nhiều cơ quan, doanh nghiệp nhận sinh viên vào làm việc phải mất từ 1 đến 2 năm đào tạo lại. Trong số 37% sinh viên ra trường có việc làm thì về cơ bản cũng chưa đáp ứng được yêu cầu công việc... Rõ ràng là chất lượng nguồn nhân lực của nước ta chưa cao, có sự mâu thuẫn giữa lượng và chất của nguồn nhân lực chất lượng cao. Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay đạt mức 3,39/10 điểm và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam xếp thứ 73/133 quốc gia được xếp hạng. Cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta cũng có sự mất cân đối nghiêm trọng: cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học thì có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật. Trong khi đó, tỷ lệ này của thế giới tương ứng là 4 và 12. Ở Việt Nam, cứ 1 vạn dân thì có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là 100 và Trung Quốc là 140... Hơn nữa, nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta lại phân bố không hợp lý: 92,2% cán bộ có trình độ tiến sĩ trở lên tập trung ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, số cán bộ có trình độ từ tiến sĩ trở lên ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Nam Bộ chiếm chưa tới 1%. Trong số giáo sư và phó giáo sư, có tới 86,2% ở Hà Nội; 9,5% ở Thành phố Hồ Chí Minh, các địa phương còn lại chưa tới 4,3%. Những năm gần đây, ở Việt Nam mỗi năm có hàng trăm ngàn sinh viên đại học, hàng chục ngàn học viên cao học, nghiên cứu sinh. Tỷ lệ lao động có trình độ đại học trở lên tăng từ 3,8% trong tổng lực lượng lao động năm 2002 lên khoảng 6.2% trong năm 2013... Nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta đang còn rất nhiều vấn đề bất cập. Số lượng lao động qua đào tạo ở trình độ từ đại học trở lên ngày một gia tăng, nhưng chất lượng của lao động qua đào tạo, khả năng thích ứng công việc và phát huy kết quả đào tạo của số lao động này lại rất thấp. Theo kết quả khảo sát gần đây, số lao động qua đào tạo phát huy được tác dụng chưa tới 40%, tình trạng bằng cấp không đúng thực chất, “bằng dởm” không phải là hiện tượng cá biệt, ngay cả những trường hợp được học hành, đào tạo rất quy củ, bài bản một cách nghiêm túc nhưng khi ra làm việc thực tế vẫn không đáp ứng được yêu cầu, không phát huy được tác dụng...
Thực trạng này được lý giải như thế nào? Theo chúng tôi nguyên nhân của thực trạng trên phải được xem xét trên cả 3 phương diện: đào tạo, sử dụng và đãi ngộ. Trên thực tế, chúng ta vẫn thường nói đào tạo nguồn nhân lực phải dựa vào nhu cầu, vào xu hướng phát triển của nền kinh tế, đào tạo đúng địa chỉ sử dụng, tiếp cận tinh hoa tri thức nhân loại... Nhưng thực tế, chúng ta chưa đạt hiệu quả mong muốn. Nhiều người cho rằng, đào tạo ở Việt Nam chỉ là để phục vụ “cầu” còn “cung” thì chưa rõ phải làm gì! Ngành nào là ngành mũi nhọn cũng chưa được xác định nhất quán, lĩnh vực nào là thế mạnh cần được quan tâm cũng chưa rõ ràng, nội dung, chương trình, mục tiêu đào tạo... chưa được xác định một cách khách quan, khoa học. Hơn nữa, chúng ta cũng đang còn lúng túng trong việc lựa chọn và quyết định hình thức, phương pháp, loại hình đào tạo thích hợp! Việc sử dụng lao động cũng còn nhiều bất hợp lý. Nguyên tắc đúng người, đúng việc, đúng chuyên môn ở nhiều nơi vẫn chỉ là những câu nói cửa miệng. Việc đãi ngộ lao động ở nước ta hiện nay cũng chưa phù hợp, chưa tương xứng, đang là cản trở lớn cho việc phát huy tiềm năng và sức sáng tạo của lao động qua đào tạo. Chúng ta vẫn thường nói “hiền tài là nguyên khí quốc gia” nhưng chế độ đãi ngộ với “hiền tài” như thế nào thì vẫn chỉ là các chủ đề được đề cập trong các cuộc hội thảo, trong các dự kiến, dự định của các cấp và các cơ quan có thẩm quyền. Chúng ta rất dễ dàng nhận thấy sự chênh lệch đến độ khó tưởng tượng trong đãi ngộ giữa thủ khoa đại học, huy chương vàng Olimpic các kỳ thi học sinh giỏi quốc tế, mức thưởng cho một phát minh sáng chế... với tiền thưởng cho “hoa hậu”, tiền cat-xê cho các “sao”... Thực tế là, 9 năm qua (2004 - 2013) Thành phố Hà Nội đã tuyên dương 973 thủ khoa đại học nhưng chỉ thu hút được 100 thủ khoa về công tác tại các cơ quan của Thành phố Hà Nội. Hiện tượng “chảy máu chất xám”, đào tạo nhân tài nhưng lại không sử dụng được người tài, đào tạo để “người khác” sử dụng vẫn đang phổ biến ở nước ta hiện nay đều có nguyên nhân từ cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước. Vấn đề nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện vẫn đang là bài toán cần tìm lời giải. Mặc dù, xét về số lượng nhân lực có học hàm, học vị, Việt Nam không thua kém các nước trong khu vực, nhưng khả năng đáp ứng nhu cầu công việc còn hạn chế, nhất là đối với yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay. Để giải quyết vấn đề này, việc đổi mới cơ chế giáo dục đào tạo đang là một đòi hỏi bức thiết.
Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã rất chú ý đến công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Mặc dù có rất nhiều cố gắng và triển vọng, song công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta còn gặp một số khó khăn và hạn chế. Trước hết là hạn chế về khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu xã hội trên 2 phương diện: Đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu về số lượng, dự báo hằng năm đào tạo mới chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu của xã hội; Đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, 80% đến 90% số sinh viên ra trường vừa được tuyển dụng cần phải đào tạo lại ít nhất là một năm. Hạn chế thứ hai là sự mất cân đối về số lượng giữa các ngành nghề được đào tạo do sự thiếu định hướng trong việc chọn nghề và chọn trường cho sinh viên. Trên thực tế, việc chọn trường, chọn ngành học của học sinh, sinh viên nhiều khi lại dựa vào các quyết định cảm tính, mơ hồ như ngành đó, trường đó đang là “mốt”, gia đình có người thân quen, trường này dễ đỗ, trường kia “danh giá”... Điều này dẫn đến cung - cầu về nhân lực chất lượng cao vẫn luôn ở trạng thái “thiếu vẫn thiếu, thừa vẫn thừa”, gây lãng phí cho các gia đình và cho cả xã hội. Những hạn chế trên có nguyên nhân từ những khó khăn về cơ sở vật chất, về nội dung chương trình đào tạo, về phương pháp giảng dạy, về đội ngũ giảng viên. Cơ sở vật chất phục vụ giáo dục đào tạo ở nước ta còn thiếu thốn và có sự chênh lệch rất lớn giữa các vùng, miền, đặc biệt là các thiết bị giảng dạy và học tập, các công trình phục vụ thí nghiệm và thực hành cho sinh viên. Nội dung chương trình đào tạo của các ngành học ở bậc đại học đã có nhiều đổi mới, từng bước đi vào chuẩn hóa. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn nhiều giáo trình, bài giảng chưa được thường xuyên cập nhật, chuẩn hóa về nội dung. Phương pháp đào tạo của các trường cao đẳng, đại học đều đã cố gắng đổi mới theo hướng nâng cao tính chủ động, sáng tạo của sinh viên, đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng chuyển sang đào tạo theo tín chỉ, nhưng những đổi mới này đang còn gặp nhiều khó khăn, trong đó có khó khăn từ chính bản thân sinh viên, vì sau 12 năm học phổ thông đã quá quen với lối học thụ động. Đội ngũ giảng viên các trường đại học, mặc dù số lượng có học hàm, học vị hằng năm đều tăng nhưng vẫn còn tình trạng thiếu các chuyên gia đầu ngành. Theo thống kê của Hội đồng chức danh Giáo sư nhà nước nhiệm kỳ 2009 – 2014, số giáo sư nghỉ hưu gấp 3 lần số giáo sư mới được bổ sung.
Một số giải pháp để đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay
Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI đã xác định 3 khâu đột phá chiến lược, trong đó có vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay, với nội dung cụ thể là “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Về mặt nhận thức và quan điểm chỉ đạo cần phải xác định rõ nguồn nhân lực chất lượng cao là tài nguyên quý giá nhất của đất nước, phải lấy nguồn lực con người làm tài nguyên thay thế. Vì vậy, phải làm cho mọi cấp, mọi ngành, mọi người thấy có trách nhiệm trong việc đào tạo, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực, biến số lượng và chất lượng nguồn nhân lực của đất nước thành lợi thế cạch tranh trên phương diện toàn cầu.
Đổi mới mạnh mẽ, toàn diện giáo dục và đào tạo, từng bước đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho nhu cầu xã hội. Nếu nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia thì giáo dục và đào tạo là một trong những yếu tố quyết định chất lượng nguồn nhân lực, là nền tảng của chiến lược phát triển con người. Trong thời đại ngày nay, nền giáo dục là yếu tố cơ bản nhất tạo nên sự thành công của mỗi quốc gia. Vì vậy cần phải đổi mới một cách căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân, làm cho giáo dục và đào tạo thực sự là phương tiện đắc lực để phát triển trí tuệ, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Cần hướng đào tạo gắn với việc làm, đào tạo với sử dụng, đào tạo theo nhu cầu xã hội. Trên thực tế, hướng đào tạo này phải được xem xét trên cả hai phương diện: Đối với nhà trường, nơi đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, cần có sự nghiên cứu hợp tác với các chủ doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội trong việc biên soạn chương trình đào tạo. Thông qua các hội nghị, hội thảo với các cơ quan, tổ chức mà nhà trường lắng nghe, tiếp nhận sự đánh giá, góp ý từ các nhà sử dụng sản phẩm đào tạo của nhà trường. Đây là cách thức rất hiệu quả để nhà trường nắm được nhu cầu thực tế, từ đó mà bổ sung, điều chỉnh kiến thức chuyên môn cũng như tư chất, đạo đức và các kỹ năng mềm khác cho sinh viên sau khi tốt nghiệp. Thông qua các hình thức liên kết đào tạo giữa nhà trường với các cơ sở, doanh nghiệp mà chương trình đào tạo của nhà trường luôn được điều chỉnh, cập nhật được cái mới, hiện đại hơn, thích ứng hơn với trình độ công nghệ mới, nâng cao được năng lực cạch tranh, tính sáng tạo của sinh viên, phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Các cơ sở thực tế ngoài việc đầu tư hỗ trợ cho nhà trường trong công tác đào tạo còn phải tham gia trực tiếp vào việc xây dựng mục tiêu, chương trình, nội dung đào tạo của các trường mà hình thức phổ biến và hiệu quả nhất là “đặt hàng” đào tạo. Giáo dục ở bậc đại học, cần gắn chặt với nhu cầu xã hội thông qua các đơn “đặt hàng” của các cơ sở thực tế, song phải bảo đảm cân đối giữa các ngành, nghề. Điều này đòi hỏi chỉ tiêu đào tạo cho mỗi ngành, mỗi trường, mỗi khu vực cần phải được xây dựng trên cơ sở tìm hiểu nhu cầu thực tế của xã hội. Tuy nhiên, nhu cầu xã hội cũng cần phải được hiểu một cách khoa học theo hướng vừa có nhu cầu trước mắt vừa tính đến nhu cầu lâu dài. Đặc biệt cần phải xác định nhu cầu đào tạo nhằm xây dựng và phát triển các lĩnh vực khoa học công nghệ cho tương lai, như điện nguyên tử, hàng không vũ trụ...
Cần đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, từng bước hoàn thiện cơ chế, phát huy vai trò giám sát của cộng đồng, khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, làm cho toàn xã hội tham gia vào công tác giáo dục, đào tạo. Cần xây dựng một xã hội học tập theo phương châm “học suốt đời”, “học ở mọi nơi, mọi hoàn cảnh”, tập trung vào rèn luyện các kỹ năng mềm cho người lao động để có khả năng hội nhập và phối hợp làm việc với hiệu quả cao nhất.
Nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt là kiểm soát đầu ra của đào tạo bậc đại học và sau đại học, tránh tình trạng “học giả, bằng thật”. Gần đây, xã hội đã lên tiếng rất nhiều về chất lượng đào tạo bậc sau đại học, cần tránh khuynh hướng quá chú trọng đến phát triển số lượng mà hạ thấp chất lượng.
Đẩy mạnh công tác hướng nghiệp từ bậc phổ thông đến bậc đại học, bảo đảm cho người học có một định hướng đúng đắn về ngành, nghề mà mình theo đuổi, từ đó xác định mục đích, động cơ, thái độ học tập rõ ràng. Trong thời gian qua, vai trò của công tác hướng nghiệp bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong việc chọn ngành, nghề phù hợp đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Tuy nhiên, kết quả đạt được chưa xứng tầm, chưa phát huy hết khả năng, đặc biệt trong khâu tổ chức các hoạt động định hướng trong thực tiễn. Để làm tốt điều này, các cơ sở giáo dục, đào tạo từ phổ thông đến đại học cần thành lập và chấn chỉnh hoạt động của các trung tâm hướng nghiệp, làm cho hoạt động hướng nghiệp trở nên thiết thực, đa dạng cả về nội dung và hình thức hướng nghiệp nhằm đem lại hiệu quả mong muốn như mục tiêu đã đề ra.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cần đặc biệt chú ý đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia và cán bộ khoa học - công nghệ đầu đàn. Trong thời đại của sự phát triển khoa học và công nghệ, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phải trở thành một chiến lược quan trọng trong quá trình phát triển. Đây là khâu đột phá trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời phải đào tạo cho được đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi về chuyên môn, có đạo đức trong sáng, tận tâm, tận lực vì dân, vì nước.
Cần phải có dự báo chính xác, kịp thời nhu cầu nhân lực chất lượng cao của các ngành, nghề trong tương lai. Làm tốt công tác dự báo nhu cầu nhân lực chất lượng cao là vấn đề mang tính quyết định trong việc đào tạo và phân bố nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Công tác giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phải gắn bó hữu cơ với chính sách sử dụng và đãi ngộ. Thực tế cho thấy, muốn thu hút nhân lực chất lượng cao, muốn tập hợp và duy trì được đội ngũ cán bộ giỏi, có trình độ và năng lực, một mặt cần phải bố trí phân công công việc phù hợp, biết tôn trọng nguyện vọng và sở trường của từng người, đồng thời cần tạo dựng môi trường làm việc tự do, dân chủ, khuyến khích lòng say mê, sáng tạo trong công việc, mặt khác có chính sách động viên, đãi ngộ, khuyến khích về lợi ích vật chất và tinh thần đối với những người có trình độ, có đóng góp với đơn vị với cộng đồng và xã hội. Có như vậy, mới bảo đảm cho công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đạt hiệu quả thực sự trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển và hội nhập mạnh mẽ hiện nay./.
Bước ngoặt lớn trong quan hệ Việt Nam - Ấn Độ  (04/12/2014)
Chủ tịch nước tiếp xúc cử tri quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh  (03/12/2014)
Thúc đẩy hơn nữa quyền của người khuyết tật  (03/12/2014)
Huy động nguồn lực phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số  (03/12/2014)
Khai mạc Kỳ họp thứ 14 Hội đồng nhân dân thành phố Cần Thơ, khóa VIII  (03/12/2014)
- Tỉnh Yên Bái nâng cao chỉ số hạnh phúc cho người dân: Từ nghị quyết đến thực tiễn
- Vai trò của Hội Xuất bản Việt Nam trong việc phát triển ngành xuất bản và nguồn nhân lực ngành xuất bản
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 2)
- Nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên trong Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương
- Một số giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển đổi số tại các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập ở Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên