Chiều 27-11, tiếp tục chương trình làm việc, các đại biểu Quốc hội làm việc tại Hội trường biểu quyết thông qua dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục nghề nghiệp và thảo luận dự án Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo.

Tăng cường vai trò của bộ quản lý ngành và cơ quan chủ quản đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp

Dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp gồm 8 chương 79 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2015, đã được Quốc hội biểu quyết thông qua tại phiên họp.

Báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý dự thảo Luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã lý giải rõ hơn một số nội dung qua thảo luận vẫn còn những ý kiến khác nhau. Về mở rộng phạm vi, đối tượng điều chỉnh của Luật và hợp nhất các trình độ đào tạo của giáo dục nghề nghiệp, bên cạnh đa số ý kiến tán thành, một số ý kiến cho rằng việc đưa trình độ cao đẳng về bậc giáo dục nghề nghiệp là chưa phù hợp với quy định của Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học hiện hành.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, việc hợp nhất các trình độ đào tạo của giáo dục nghề nghiệp thành ba trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng là nhằm thể chế hóa nội dung Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo về “thống nhất tên gọi các trình độ đào tạo” và “quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học” cũng như tạo thuận lợi cho việc quy hoạch hệ thống cơ sở đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao theo tinh thần Chỉ thị số 37-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 06-6-2014.

Việc sắp xếp lại các trình độ đào tạo của giáo dục nghề nghiệp là dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo nghề nghiệp; xuất phát từ tình hình thực tiễn, việc hợp nhất các trình độ nhằm một mặt khắc phục những bất cập phát sinh từ thực tiễn, tạo sự thống nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân; mặt khác, tạo điều kiện thuận lợi cho việc công nhận tương đương trình độ giữa Việt Nam với các quốc gia trong khu vực ASEAN nói riêng và trên thế giới nói chung, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế về đào tạo nghề nghiệp.

Hơn nữa việc mở rộng phạm vi, đối tượng điều chỉnh và hợp nhất các trình độ đào tạo như quy định trong dự thảo Luật không tạo ra xung đột pháp lý mà vẫn bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật vì khoản 2 Điều 9 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho phép Luật ban hành sau được sửa đổi, bổ sung một số quy định của một số Luật được ban hành trước đó.

Cụ thể, Điều 77 và Điều 78 của dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ những quy định trong các luật khác liên quan đến trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp.

Về cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp, đa số ý kiến đại biểu tán thành sự cần thiết phải thống nhất một cơ quan đầu mối thay mặt Chính phủ thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước đối với giáo dục nghề nghiệp. Tuy nhiên, việc phân công trách nhiệm này cho cơ quan cụ thể nào của Chính phủ thì ý kiến đại biểu còn khác nhau và đề nghị có sự nghiên cứu, cân nhắc thận trọng, kỹ lưỡng trước khi quyết định.

Tiếp thu ý kiến đại biểu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan liên quan tiếp tục cân nhắc thận trọng, toàn diện cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp; đồng thời, chỉ đạo Đoàn thư ký kỳ họp gửi Phiếu xin ý kiến đại biểu Quốc hội về vấn đề này. Kết quả cho thấy ý kiến đại biểu về vấn đề này còn chưa tập trung, không phương án nào được trên 50% đại biểu Quốc hội nhất trí.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho giữ nguyên quy định về vấn đề này như trong Luật dạy nghề hiện hành là: giao cho Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp và phân công cụ thể cơ quan thay mặt Chính phủ chịu trách nhiệm làm đầu mối thực hiện quản lý Nhà nước về lĩnh vực này cho phù hợp với yêu cầu điều hành của Chính phủ trong từng thời kỳ. Đồng thời, cần tăng cường vai trò của bộ quản lý ngành và cơ quan chủ quản đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về biển

Thảo luận về dự án Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với việc cần thiết ban hành Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, là yêu cầu thực tiễn khách quan nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo.

Việc xây dựng luật nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về biển một cách đầy đủ theo yêu cầu của Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; tăng cường quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo trên quan điểm đã được nhấn mạnh tại Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03-6-2013 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường…

Một số ý kiến cho rằng việc ban hành Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo nhằm khắc phục một số chồng chéo trong các văn bản về khai thác, sử dụng tài nguyên, làm cho tài nguyên biển dần bị suy thoái, ô nhiễm môi trường biển diễn biến phức tạp; nâng cao hiệu quả công tác quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý quan trọng thực hiện chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên biển;…

Một số ý kiến đánh giá đây là Luật mới có phạm vi điều chỉnh rộng, liên quan đến nhiều luật khác. Vì vậy, Ban soạn thảo phải rà soát, làm rõ hơn phạm vi điều chỉnh, đối tượng quản lý, phân công trách nhiệm giữa các bộ, ngành trong việc quản lý tổng hợp tài nguyên môi trường biển và hải đảo để không chồng chéo với quy định của các luật khác, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Làm rõ hơn phạm vi điều chỉnh của Luật

Nội dung, phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo cơ bản đã xác định được ranh giới giữa Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo và các luật khác có liên quan cũng điều chỉnh lĩnh vực tài nguyên và môi trường như Luật Thủy sản, Luật Khoáng sản, Luật Dầu khí, Luật Tài nguyên nước, Luật Đa dạng sinh học, Luật Đất đai, Luật Biển Việt Nam, Luật Bảo vệ môi trường,...

Dự thảo Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đã tập trung quy định các công cụ, cơ chế điều phối, phối hợp trong hoạt động quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo.

Tuy nhiên, nhiều ý kiến đề nghị Ban soạn thảo rà soát, chỉnh sửa lại khoản 1 điều này để quy định được rõ hơn, tránh chồng chéo và tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng trong tình hình thực tế của Việt Nam. Đồng thời nghiên cứu, bổ sung vào dự thảo Luật các quy định để bảo đảm quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường trên phạm vi các vùng biển Việt Nam.

Giải trình rõ cơ sở khoa học và thực tiễn của quy định phạm vi vùng bờ

Thảo luận về quy định phạm vi vùng bờ (Điều 22), khoản 2 Điều 22 dự thảo Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo quy định “Vùng biển ven bờ là vùng biển có chiều rộng 06 hải lý tính từ mực nước triều kiệt trung bình nhiều năm ra phía biển”, một số ý kiến đề nghị Ban soạn thảo cần giải trình rõ cơ sở khoa học và thực tiễn của quy định này, làm rõ sự khác nhau giữa “vùng bờ” với các vùng biển theo quy định của Luật Biển Việt Nam; cân nhắc quy định về phạm vi vùng bờ để bảo đảm tính khả thi việc tổ chức thực hiện quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường vùng bờ và phù hợp với quy định của pháp luật về biên giới quốc gia.

Tại phiên thảo luận, các đại biểu đã cho ý kiến về nội dung bảo vệ môi trường biển và hải đảo; trách nhiệm quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, môi trường biển và hải đảo;.../.