Người Mỹ với “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”
Được chuẩn bị sớm từ trước, quân dân Hà Nội và các địa phương trên miền Bắc đã không bị bất ngờ, bước vào chiến đấu với tinh thần bình tĩnh, chủ động và tự tin. Bộ đội Phòng không - Không quân và dân quân tự vệ hiệp đồng chặt chẽ, đánh trả quyết liệt máy bay Mỹ. Trong đêm 18-12-1972, ta đã bắn rơi 3 máy bay B52 (có 2 chiếc rơi tại chỗ); 4 máy bay chiến thuật, bắt sống phi công Mỹ. Trong đợt một từ ngày 18 đến 24-12-1972, ta bắn rơi 49 máy bay, trong đó có 17 B52, 5 F 11,… bắt sống hàng chục phi công. Bị tổn thất quá nặng, lấy cớ nghỉ lễ Giáng sinh, Mỹ phải tạm ngừng ném bom để củng cố lực lượng, rút kinh nghiệm, tìm thủ đoạn đánh phá mới.
Đêm 26-12-1972, Mỹ huy động 120 lần máy bay B52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên nhằm bảo đảm mật độ bay lớn hơn mật độ hỏa lực, nhất là hỏa lực tên lửa, hòng gây quá tải, làm rối loạn hệ thống phòng không của ta. Thủ đoạn của Mỹ cũng thay đổi, đánh từ nhiều hướng trên toàn bộ địa bàn chiến dịch và đánh tập trung cùng một thời điểm lúc 22 giờ 30 phút vào nhiều mục tiêu. Mỹ cho rằng, tấn công như vậy, ta sẽ không đủ lực lượng tên lửa để đánh trả cùng một lúc. Thế nhưng, riêng trận này ta bắn rơi 18 máy bay các loại, trong đó có 8 B52 (4 chiếc rơi tại chỗ), bắt sống nhiều phi công Mỹ. Trong các ngày 27, 28 và 29-12, ta đã bắn rơi thêm 8 máy bay B52. Cuộc tập kích chiến lược đường không bằng B52 của không quân Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng… đã bị đập tan. Ý đồ thương lượng trên thế mạnh của chính quyền R.Ních-xơn (Richard Nicxon) bị thất bại.
Trong 12 ngày đêm, địch đã xuất kích 769 lần/ máy bay B52 và trên 3.800 lần máy bay cường kích. Quân và dân miền Bắc đã lập công xuất sắc: bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 máy bay B52, 5 máy bay F111 (cánh cụp, cánh xòe), bắt sống nhiều giặc lái. Dư luận phương Tây đã ví trận thắng này như một trận “Điện Biên Phủ trên không”.
Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” có ý nghĩa vô cùng to lớn cả về quân sự, chính trị, ngoại giao, làm thay đổi hoàn toàn cục diện chiến tranh, buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pa-ri ngày 27-1-1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút toàn bộ lực lượng quân viễn chinh Mỹ về nước, đồng thời mở ra một bước ngoặt lịch sử cho nhân dân ta tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn đất nước.
Nỗi ám ảnh của người Mỹ
“Chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ II” không chỉ là nỗi ám ảnh đối với các nhà lãnh đạo chính trị quân sự và các cựu chiến binh Mỹ mà còn là đề tài bình luận của các nhà phân tích, các phương tiện thông tin đại chúng Mỹ và thế giới.
Trong hồi ký của mình, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ R.Mắc Na-ma-ra (Robert McNamara) viết: “Mỹ đã phạm sai lầm lớn trong chiến tranh Việt Nam - những sai lầm cơ bản có tính chiến lược. Mỹ đã không lường hết được ý thức dân tộc của con người Việt Nam khi Mỹ đổ quân vào Việt Nam, ném bom miền Bắc lần này, phiêu lưu đến mức tung một lực lượng không lực khổng lồ đánh thẳng vào các thành phố miền Bắc, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội. Mỹ cũng không nghĩ đến việc, về mặt khí tài và kỹ thuật quân sự, quân đội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thể trừng trị được các “chủ bài” trên không của Mỹ và cuối cùng Mỹ đã không hiểu lịch sử Việt Nam xa và hiện tại…”.
Trong cuốn sách“Lời phán quyết về Việt Nam”, Giô-dép A. Am-tơ (Joseph A. Amter) viết: “Trong 12 ngày tiếp theo, từ ngày 18-2 đến ngày 30-12-1972, Mỹ ném xuống Hà Nội, Hải Phòng trên 35.000 tấn bom đạn. Lầu Năm Góc cho rằng, các trung tâm dân cư cũng như các mục tiêu quân sự sẽ bị quét sạch chỉ còn là những đống gạch vụn. Toàn bộ các vùng lân cận đã bị xóa sạch, các phương tiện vận tải hoàn toàn bị phá hủy, và những bệnh viện quan trọng bị tàn phá. Bệnh viện Bạch Mai, cơ sở y tế hiện đại nhất của Hà Nội với trên 900 giường bệnh đã bị biến thành nơi đổ nát… Tổng thống R.Ních-xơn đã đánh giá thấp quyết tâm của nhân dân Bắc Việt Nam… Khoảng 33 đến 35 B52 chở gần 100 phi công Mỹ đã bị bắn rơi trong 12 ngày đêm. Con số chính thức được thừa nhận, chỉ 15 máy bay bị mất hầu như chắc chắn”.
Đại tá H.G.Săm-mơ (Harry G.Summer) trong cuốn “An-ma-nach về chiến tranh Việt Nam” năm 1985, đã viết: “Bắc Việt Nam là một trong các hệ thống phòng không có hiệu quả nhất trong lịch sử. Hệ thống này gồm máy bay tiêm kích MiG-17 và MiG-21, các tên lửa đất đối không SAM-2 cùng hàng nghìn vũ khí khác từ súng PK 12,7 mm đến pháo 100 mm. Pháo cao xạ buộc máy bay tiến công phải bay cao, dễ bị SAM và MiG đánh. Ngược lại, nếu bay thấp để tránh SAM và MiG thì máy bay dễ bị sát thương bởi hỏa lực pháo phòng không. Các kíp bay chiến đấu của không lực Mỹ vào miền Bắc Việt Nam có cảm giác như lao vào lưới lửa phòng không”.
Tuần báo Mỹ AW&ST, ngày 12-2-1973 nhận xét: “Đây là một cuộc chiến tranh nhiễu điện tử quy mô lớn đầu tiên giữa hai phe tiến công và phòng thủ đều mạnh. Chiến tranh điện tử đòi hỏi có chiến thuật linh hoạt, khôn khéo và trang bị hiện đại. Những trận đánh ở Hà Nội đã chứng minh điều đó… Hà Nội theo dõi các tín hiệu nhiễu trên màn ra-đa do máy gây nhiễu trên B52 phát ra, giao hội các nguồn nhiễu, tính toán đường bay rồi phóng hàng loạt tên lửa dọc theo đường bay phán đoán… thiệt hại B52 lên đến đỉnh cao”.
Trên tạp chí Không quân (Mỹ) đăng tải loạt bài về thất bại của chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ II. Đa-na Đrên-cao-xki (Dana Drenkowsky) trong bài “Thảm kịch của cuộc hành quân Lai-nơ-bếch-cơ II” đã viết: “Chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ II hầu như hoàn toàn do Bộ chỉ huy không quân chiến lược Hoa Kỳ đảm nhiệm, là một thảm họa cho phi công và là một tiền lệ nguy hiểm cho tương lai. Hậu quả của cuộc hành quân này là một số lớn B52 bị bắn hạ một cách không thương tiếc và nhiều phi công bị thương tật, chết hoặc bị bắt sống”.
Tháng 2-1973, J.Phi-sơ đã viết: “trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tổn thất máy bay ném bom bị bắn hạ ước tính trung bình là 1 chiếc/ 64 phi đội xuất kích… trên không phận Hà Nội, Hải Phòng, cứ 49 phi đội xuất kích thì lại có 1 B52 bị SAM bắn hạ”.
Nhận xét về “Chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ II”, tháng 6-1973, tướng Gioóc-giơ I-đơ, cựu Phó Tham mưu trưởng phụ trách kế hoạch và tác chiến của không quân Mỹ viết: “Bắc Việt Nam có lực lượng phòng không dày dạn kinh nghiệm nhất thế giới, nhất là kinh nghiệm phóng tên lửa SAM để hạ máy bay. Về không chiến, các phi công Mỹ dựa vào hệ thống cảnh giới trên không tuy hiện đại song chắp vá nên hạn chế, trái với các máy bay MiG được ra-đa hoàn chỉnh điều khiển cho nên đa số máy bay Mỹ bị rơi vì đối phương đánh bất ngờ và chỉ khi một tên lửa lao đến ống thoát khí ở đuôi thì phi công mới biết là máy bay đang bị tiến công…”.
Đại úy phi công Mỹ R.E.Hon-phơ, người trực tiếp tham gia Chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ II, trong bài báo nhan đề “Cuộc hành quân Lai-nơ-bếch-cơ II theo nhận định của một phi công” tháng 9-1973, đã viết: “Để ngăn chặn việc Hà Nội phục hồi lại sức mạnh, đô đốc T. Mu-rơ, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng Liên quân Mỹ khuyến cáo nên mở một chiến dịch mới ném bom Bắc Việt Nam ồ ạt hơn nữa... Thất vọng vì thái độ ương ngạch của Hà Nội và cảnh giác trước việc Quốc hội có thể cắt bỏ ngân sách, Tổng thống chấp thuận giải pháp này vào tháng 12-1972. Cuộc hành quân mới này mang tên Lai-nơ-bếch-cơ II. Thoạt tiên, nó được hoạch định dưới hình thức một cuộc tập kích bằng không quân kéo dài ba ngày vào khu vực Hà Nội, Hải Phòng nhưng sau đó được mở rộng thành 11 ngày… Không phải B52 không được bảo dưỡng tốt (trong 729 phi vụ chỉ có một chiếc B52 bị hỏng động cơ khi bay) mà một số máy bay chiến lược Mỹ bị rơi nhiều chính là vì mật độ vũ khí phòng không của Hà Nội, Hải Phòng tập trung cao buộc máy bay B52 phải bay lên tầm cao và ở tầm này dễ bị tên lửa bắn hạ…”.
Trong cuốn sách “Người Mỹ ở Việt Nam” xuất bản năm 1980, Gu-en-tơ Le-vi nhớ lại: “Cả chiến dịch “Sấm rền” và “Lai-nơ-bếch-cơ II” đều không mang lại sự nhượng bộ quan trọng của Bắc Việt Nam. Cái giá mà Mỹ phải trả cho cuộc chiến tranh không quân ở Bắc Việt Nam là quá đắt về mặt tài chính và chính trị…”.
Khi phân tích nguyên nhân thất bại của Chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ II, J.T. Giôn Út viết trong cuốn “Cuộc chiến tranh Việt Nam”: “Những điểm yếu nghiêm trọng của việc vạch kế hoạch và thực hiện bộc lộ trong những cuộc oanh tạc ngày thứ nhất đã trở nên rõ rệt một cách bi thảm trong những ngày sau. Các chiến thuật áp dụng trong chiến dịch ném bom ở miền Nam không thích hợp với khu vực Hà Nội, nơi có hỏa lực phòng không mạnh”.
Trong bài viết nhan đề “Chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ II” trên tạp chí Không quân, tháng 11-1997, Oa-tơ Boi-nơ hồi tưởng: “Vào thời điểm năm 1972, sau một thời gian xây dựng, Bắc Việt Nam đã có một hệ thống phòng không tích hợp mạnh nhất thế giới. Quy mô và sức mạnh của hệ thống phòng không - không quân này mạnh đến mức nhiều người tin tằng, các máy bay ném bom B52, “át chủ bài” của lực lượng tiến công tầm xa của Mỹ khó mà sống sót… Có ba nguyên nhân dẫn đến tổn thất của B52. Thứ nhất, các ra-đa của Bắc Việt Nam có thể vô hiệu hóa các biện pháp đối phó điện tử của B52. Thứ hai, diện tích phản xạ hiệu dụng của B52 quá lớn. Thứ ba, tốc độ gió quá lớn làm giảm tốc độ của máy bay… ”.
Đối với các phi công Mỹ tham gia chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ II bị bắt làm tù binh, đó là những ký ức kinh hoàng: “Ở sân bay U Ta-pao không khí bao trùm là lo lắng và sợ hãi. Bởi vì chúng tôi phải đi vào những nơi nguy hiểm nhất. Bởi vì nhiều máy bay B52 hàng ngày không trở về. Bởi vì cứ như thế này thì ai cũng sẽ đến lượt phải chết. Chết trong đêm tối. Chết bi thảm. Chết vì mục đích không thể hiểu nổi”. (Giôn Ha-ri I-u-nin, trung tá, lái chính bị bắt tại Hải Hưng). “Tôi có thể khẳng định rằng, nếu B52 còn vào thì còn bị bắn rơi nhiều nữa. Các ông chiến đấu dũng cảm, mưu trí, có chính nghĩa. Tôi tin rằng nhất định các ông sẽ thắng vì lịch sử ở phía các ông, đạo lý cũng ở phía các ông”. (Uy-li-am Con-li) “Máy bay chúng tôi trúng tên lửa SAM. Chỉ huy chẳng ra lệnh gì cả. Tôi nghe hai tiếng “búp”, “búp” biết rằng hai thằng ngồi trên ca bin nhảy dù rồi. Tôi liền nhảy dù theo, chẳng kịp gọi thằng ngồi sau. Đang luống cuống cởi dù thì tôi bị bắt. Lạy Chúa, tất cả diễn ra chừng 15 phút, 15 phút kinh hoàng nhất đời tôi”. (R. Tô-mat Sim-sơn, đại úy, bị bắn rơi đêm 28-12-1972). “Trước hôm tôi tham gia chuyến bay cuối cùng, trên báo quân đội Mỹ “Sao và Vạch” có đưa lên một số máy bay B52 bị bắn hạ từ 18 đến 24-12. Chuyến bay nào cũng có máy bay không trở về. Thật đáng sợ! Không khí bao trùm căn cứ An-đéc-xơn là không khí căng thẳng. Không cười, không đùa, không nói to… ai nấy đều lo lắng. Không khí căng thẳng này tăng lên từng ngày một” (Giêm Con-đân, thiếu tá, bị bắt ngày 27-12-1972).
Hãng Roi-tơ (Anh) ngày 29-12-1972 bình luận: “với cái đà mất máy bay, phi công này, nếu Mỹ còn tiếp tục ném bom thì chỉ đến ngày 28-4-1973, toàn bộ lực lượng không quân chiến lược của Mỹ ở vùng Đông Nam Á sẽ hết nhẵn”. Rô-mét Chan-đra (Romesh Chandra), Tổng Thư ký Hội đồng Hòa bình thế giới, trong bài đăng trên báo Cứu quốc, ngày 14-12-1973 đã nhấn mạnh: “tại Hà Nội anh hùng… người ta đã thấy rõ một dân tộc không đầu hàng và không hề sợ sệt, quyết tâm làm theo Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Tại Hà Nội anh hùng đã đập tan vĩnh viễn câu chuyện thần thoại của những B52”...
Bốn mươi năm đã trôi qua. Những âm hưởng sự kiện ngày nào như vẫn còn nguyên trong ký ức, trong tâm tưởng và trong lịch sử không chỉ của Việt Nam mà còn của cả nước Mỹ.
Đối với nước ta, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, quân đội ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đang cùng với nhân dân cả nước kế thừa, phát triển kinh nghiệm và truyền thống nghệ thuật quân sự dân tộc, đặc biệt là những kinh nghiệm quý báu đã được tổng kết từ các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Quán triệt quan điểm quân sự của Đảng “dựa vào sức mạnh chiến tranh nhân dân, lấy lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân làm nòng cốt” và từ kinh nghiệm của chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” tháng 12-1972, chúng ta có thể vận dụng vào xây dựng các khu vực phòng thủ, tìm tòi, sáng tạo nhiều cách đánh linh hoạt của chiến tranh nhân dân, trong đó có việc nghiên cứu hình thành và phát triển nghệ thuật chiến dịch phòng không chống tập kích đường không bằng vũ khí công nghệ cao của đối phương. Chiến tranh đã lùi xa nhưng những bài học rút ra từ chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” vẫn còn nguyên giá trị./.
Kỷ niệm Ngày Dân số Việt Nam 26-12: Lần đầu tiên Việt Nam khống chế được tốc độ gia tăng tỷ suất giới tính khi sinh  (25/12/2012)
Liên minh mới từ liên minh cũ - lối thoát của EU  (25/12/2012)
Vinh danh các tân giáo sư, phó giáo sư năm 2012  (25/12/2012)
Việt - Lào sẽ còn nương tựa vào nhau cùng phát triển  (25/12/2012)
Phó Chủ tịch Quốc hội làm việc tại Quảng Ngãi  (25/12/2012)
- Tỉnh Yên Bái nâng cao chỉ số hạnh phúc cho người dân: Từ nghị quyết đến thực tiễn
- Vai trò của Hội Xuất bản Việt Nam trong việc phát triển ngành xuất bản và nguồn nhân lực ngành xuất bản
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 2)
- Nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên trong Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương
- Một số giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển đổi số tại các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập ở Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên