TCCSĐT - Lời Bộ Biên tập: Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5-8-2008 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X, “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương khóa X đã ban hành các kết luận về một số nội dung trong Nghị quyết; Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP, ngày 28-10-2008, xác định “Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới”, và Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 4-6-2010 phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020.
Qua quá trình triển khai thực hiện, bên cạnh những kết quả bước đầu, còn nhiều vấn đề đòi hỏi vừa phải đánh giá, rút kinh nghiệm, vừa phải tiếp tục bàn hướng giải quyết để đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, ngày 9-12-2011, tại Nam Định, Tạp chí Cộng sản chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng tỉnh Nam Định tổ chức Hội thảo Khoa học “Xây dựng nông thôn mới - những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Tạp chí Cộng sản Điện tử trân trọng giới thiệu Báo cáo Đề dẫn của PGS, TS Vũ Văn Phúc, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; Tổng thuật Hội thảo và một số bài tham luận tại Hội thảo.

                                                  *
                                              *       *

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5-8-2008 “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” nhằm “không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, bảo đảm hài hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(1).

Thực hiện Nghị quyết trên, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương khóa X đã ban hành các Kết luận về một số nội dung trong Nghị quyết, bao gồm Đề án An ninh lương thực quốc gia, Đề án Chương trình Xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới cấp xã, Đề án về Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội Nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và xây dựng giai cấp nông dân. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP, ngày 28-10-2008, xác định “Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới”. Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 4-6-2010 phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 gồm 11 nội dung, với 19 tiêu chí.

Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới: “Quy hoạch phát triển nông thôn gắn với đô thị và bố trí các điểm dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường. Triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của nông thôn Việt Nam. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tạo môi trường thuận lợi để khai thác mọi khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động…”(2).                    

Với Nghị quyết của Đảng, những quyết sách của Chính phủ và sự vào cuộc mạnh mẽ với quyết tâm chính trị cao của các bộ, ban, ngành ở Trung ương, các cấp chính quyền ở cơ sở, việc xây dựng nông thôn mới theo đúng lộ trình thực sự trở thành một cuộc vận động cách mạng của đất nước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Hiện nay, toàn xã hội đã và đang tích cực vào cuộc, cùng thực hiện sự nghiệp xây dựng nông thôn mới. Cấp ủy, chính quyền từ Trung ương đến cơ sở đã sớm triển khai Nghị quyết của Đảng; đẩy mạnh công tác tuyên truyền; bước đầu tạo sự chuyển biến trong nhận thức của cán bộ, người dân. Hầu hết cấp ủy đảng các cấp đã tổ chức quán triệt Nghị quyết, trong đó nhiều xã tổ chức phổ biến trực tiếp đến nhân dân tại thôn, bản. Nhìn chung, cán bộ cơ sở và nhân dân rất phấn khởi, kỳ vọng vào một nông thôn mới phát triển mang lại sự cải thiện nhanh hơn đời sống vật chất, tinh thần cho người dân nông thôn thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Các bộ, ngành chức năng liên quan đã nhanh chóng xây dựng, triển khai nhiều cơ chế chính sách để đưa Nghị quyết vào cuộc sống.

Ở địa phương: tất cả các tỉnh, thành phố đã xây dựng chương trình hành động triển khai Nghị quyết. Nhiều tỉnh, thành phố chủ động ban hành các chính sách mới, đặc thù phù hợp với thực tế của địa phương. Những việc nêu trên đã có tác động tích cực đến phát triển nông nghiệp, nông thôn trước mắt và lâu dài, tạo được niềm tin cho cán bộ, nông dân vào chủ trương phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng.

Các bộ, ngành đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược, quy hoạch nhiều lĩnh vực trong nông nghiệp, nông thôn phục vụ yêu cầu phát triển toàn diện, theo hướng hiện đại, như Chiến lược phát triển thủy lợi; Chiến lược phát triển thuỷ sản đến năm 2020; Quy hoạch hệ thống cảng cá, bến cá đến năm 2020; Đề án phát triển cao su đến năm 2020; Đề án phát triển giống cây trồng, vật nuôi, v.v..

Thông tư số 54/TT-NNPTNT ngày 21-8-2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định: “vùng/khu vực nông thôn mới Việt Nam  XHCN là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn; được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã". Như vậy, nông thôn mới trước hết phải là nông thôn, chứ không phải là thị tứ, thị trấn... Nông thôn mới vừa bao hàm chức năng lịch sử vốn có của nông thôn là vùng nông dân quần tụ trong đơn vị làng xã và chủ yếu làm nông nghiệp, vừa có những thuộc tính khác với nông thôn truyền thống. Đó là: làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại; sản xuất phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hoá; đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn ngày càng được nâng cao; giá trị văn hoá truyền thống được bảo tồn, phát triển; xã hội nông thôn an ninh tốt, quản lý dân chủ.

Nông thôn mới còn thực hiện chức năng rất quan trọng - chức năng sinh thái. Nếu sản xuất công nghiệp phát triển phá vỡ mối quan hệ tự nhiên vốn có giữa con người và thiên nhiên, thì sản xuất nông nghiệp lại có chức năng phục vụ hệ thống sinh thái, luôn luôn làm cho con người gần gũi, gắn chặt với thiên nhiên và dung dưỡng thiên nhiên. Vì vậy, xây dựng nông thôn mới cần hạn chế việc gạch hóa, bê tông hóa, phố hóa các làng quê truyền thống.

Nông thôn nước ta là khu vực rộng lớn và đông dân nhất, đa dạng về thành phần tộc người, về văn hóa, là nơi bảo tồn, lưu giữ các phong tục, tập quán của cộng đồng. Một trong những vấn đề cần đặc biệt quan tâm trong quá trình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới là thực sự tôn trọng, phát huy tối đa vai trò, vị thế chủ thể của người nông dân về chính trị, kinh tế và văn hóa... Đây là nhóm dân số đông nhất ở nước ta hiện nay, là giai cấp cách mạng, đồng hành cùng với giai cấp công nhân trong suốt chiều dài lịch sử cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng lại đang gặp nhiều khó khăn trong đời sống và ít được hưởng lợi nhất các thành quả của cách mạng. Nhìn chung, trình độ học vấn của nông dân nước ta hiện nay còn thấp, nặng về kinh nghiệm, nên cần kiên trì, lâu dài hỗ trợ nông dân về khoa học - kỹ thuật, đưa tiến bộ khoa học vào nông nghiệp, nông thôn.

Nông thôn đang rất cần những quyết sách phát triển phù hợp trên cơ sở khoa học, sát thực tế cho từng địa phương, vùng miền và thậm chí cho từng nhóm dân tộc, mà trước hết là công tác quy hoạch để hoàn thiện định hướng, nội dung đầu tư theo lộ trình phù hợp hướng tới phát triển bền vững và hiệu quả trong từng bước đi.

Những kết quả bước đầu trong triển khai thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới

Ngay trong những năm đầu triển khai, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào của cả nước, các nhiệm vụ về xây dựng nông thôn mới được xác định rõ trong nghị quyết đại hội Đảng các cấp từ tỉnh đến huyện và xã. Ban Bí thư Trung ương khóa X đã trực tiếp chỉ đạo Chương trình thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới cấp xã tại 11 xã điểm ở 11 tỉnh, thành phố đại diện cho các vùng, miền.

Bộ máy quản lý và điều hành Chương trình xây dựng nông thôn mới đã được hình thành từ Trung ương xuống địa phương. 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 84,7% huyện và 52% số xã trên toàn quốc đã thành lập được Ban Chỉ đạo. Các bộ, ngành đã ban hành 25 loại văn bản  hướng dẫn địa phương về tổ chức bộ máy quản lý, điều hành, quy hoạch nông thôn mới. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã triển khai cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư gắn với xây dựng nông thôn mới”. Ngày 8-6-2011, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức phát động thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”.

Dự toán hằng năm trình Quốc hội về bảo đảm chi ngân sách nhà nước cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn có tốc độ tăng cao hơn chi chung của cả nước. Riêng năm 2011 cao gấp 2,21 lần so với năm 2008. Tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn trong 3 năm 2009-2011 chiếm khoảng 52% tổng vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ của cả nước, trong đó đầu tư cho phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 37% tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn. Vốn tín dụng cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tiếp tục được ưu đãi. Doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn được ưu tiên theo Nghị định 61/2010/NĐ-CP của Chính phủ.

Riêng năm 2011, Nhà nước đã bố trí 1.600 tỉ đồng từ nguồn ngân sách Trung ương cho Chương trình để tập trung vào 5 nội dung, gồm quy hoạch, đào tạo, tuyên truyền, phát triển sản xuất và xây dựng một số hạng mục kết cấu hạ tầng thiết yếu. Nhiều địa phương, như Hà Tĩnh, Lào Cai, Hải Dương, Vĩnh Long, Phú Thọ, Nam Định, Thái Bình, Sóc Trăng còn chủ động bổ sung kinh phí lên tới 5.664,8 tỉ đồng  từ nguồn ngân sách địa phương cho các xã để triển khai chương trình ngay trong năm 2011. 10/13 tỉnh, thành phố  trực thuộc Trung ương tự túc ngân sách giai đoạn 2011-2015.    

Với sự vào cuộc tích cực, khẩn trương của các bộ, ban, ngành ở Trung ương, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương và bản thân người dân nông thôn, trong gần ba năm qua, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhưng nông nghiệp, nông thôn đã vững vàng vượt qua khó khăn, duy trì được tăng trưởng, góp phần ổn định kinh tế - xã hội đất nước.

Xin nêu một vài dẫn chứng và số liệu được thống kê bước đầu như sau: Năm 2010, nông nghiệp nước ta đạt mức tăng GDP là 2,78%, sản lượng lúa tăng thêm 1,17 triệu tấn (đạt 39,9 triệu tấn); sản lượng thịt các loại tăng 725 ngàn tấn, đạt 4,02 triệu tấn; tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ sản tăng 990 ngàn tấn, đạt 5,12 triệu tấn; sản lượng muối tăng 340 ngàn tấn, đạt 1,18 triệu tấn; tỷ lệ che phủ rừng tăng 1,2%, đạt 39,5% diện tích. Tổng kim ngạch xuất khẩu các loại nông, lâm, thủy sản đạt 19,53 tỉ USD (tăng 3,46 tỉ USD so với năm 2008).   

Giao thông nông thôn được coi là khâu đột phá trong xây dựng hạ tầng nông thôn. Trong 2 năm, 2009 và 2010 đã huy động gần 33 ngàn tỉ đồng, trong đó nhân dân đóng góp khoảng 11,2% và trên 24 triệu ngày công lao động; các nguồn khác chiếm 14,4%; ngân sách nhà nước hỗ trợ 74,4% mở mới và nâng cấp hơn 40 nghìn ki-lô-mét đường; xây dựng khoảng 4.200 cầu bê tông, cầu liên hợp, cầu dầm sắt, cầu treo, cầu gỗ và gần 50 nghìn cống. Hạ tầng thương mại ở nông thôn mở rộng, tăng nhịp độ và tần suất giao thương. Nâng cấp và mở rộng hệ thống điện, nâng tỷ lệ số xã lên 97,8% với 95,4% hộ sử dụng điện. Hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin về cơ bản đã phát triển đến các xã vùng sâu, vùng xa. Khoảng 70% số xã có điểm truy cập in-tơ-nét công cộng và 97% số xã có điện thoại công cộng.

Cơ cấu kinh tế nông thôn có bước chuyển biến tích cực. Công nghiệp và dịch vụ đã chiếm xấp xỉ 60% cơ cấu kinh tế nông thôn. Trên 40 tỉnh hoàn thành việc xây dựng quy hoạch phát triển làng nghề nông thôn. Số lượng làng nghề tăng lên, hiện có trên 2.971 làng nghề theo tiêu chí của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.     

Chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu đã tập trung xây dựng kịch bản về tác động của biến đổi khí hậu tới cấp huyện. Thể chế, chính sách, chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu và kế hoạch hành động quốc gia, huy động được hơn 1,2 tỉ USD từ cam kết tài trợ quốc tế. Năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai tiếp tục được tăng cường.

Giám sát chặt chẽ các nguồn tài nguyên và môi trường, tăng cường quản lý và sử dụng theo hướng bền vững, có hiệu quả được thể hiện qua hàng loạt văn bản về bảo vệ môi trường nông thôn với mục tiêu ngăn chặn và khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường; quản lý tổng hợp chất thải rắn; xử lý, phòng ngừa ô nhiễm do hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu; phát triển dịch vụ môi trường và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; chính sách ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường... được Chính phủ ban hành đang đi vào cuộc sống.

Về nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất  là vùng khó khăn được tập trung ưu tiên như xuất khẩu lao động nông thôn; tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho nông dân thuộc diện thu hồi đất nông nghiệp; Các chính sách và giải pháp xóa đói giảm nghèo được triển khai đồng bộ trên cả 3 phương diện: (i) Giúp người nghèo tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở, nước sinh hoạt; (ii) Hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về bảo đảm đất sản xuất, tín dụng ưu đãi, khuyến nông - lâm - ngư, phát triển ngành nghề; (iii) Phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu cho các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn được hưởng ứng mạnh và được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. 

Các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả đang được triển khai mạnh mẽ. Đặc biệt, mô hình kinh tế trang trại theo đơn vị hộ nông thôn đang có xu thế phát triển và tiếp tục là đơn vị sản xuất kinh doanh chủ lực ở nông thôn. Ngày càng xuất hiện những mô hình hợp tác xã đa dạng, mở ra triển vọng mới.  

Công tác nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực và công tác khuyến nông ngày càng được coi trọng để hỗ trợ cho nông dân phát triển sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa. Đội ngũ cán bộ khuyến nông ở các địa phương được bổ sung một số lượng lớn.  Sau 1 năm, cả nước đã đào tạo nghề cho 345.140 lao động nông thôn, tỷ lệ có việc làm sau học nghề đạt khoảng 70%. Việc thí điểm dạy nghề gắn với giải quyết việc làm và nâng cao mức sống ở 11 xã điểm xây dựng mô hình nông thôn mới; mô hình dạy nghề gắn với doanh nghiệp bước đầu thu được kết quả tích cực. Việc huy động các nguồn lực, tăng mạnh đầu tư ngân sách nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn được đổi mới mạnh.

Có thể khẳng định, Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn là Nghị quyết mang tính toàn diện và đầy đủ nhất để giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta từ trước đến nay. Vì vậy, được nhân dân cả nước, nhất là cư dân nông thôn tích cực đón nhận, kỳ vọng về một thời kỳ với tương lai phát triển mạnh mẽ. Nhiều nội dung của Nghị quyết khi được triển khai đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và tạo sự chuyển biến rõ rệt, nhất là những nội dung phát triển sản xuất nông nghiệp, giảm nghèo; phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; vấn đề an sinh xã hội; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống…phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị vào công cuộc xây dựng nông thôn mới. Có thể coi đây là một cuộc vận động cách mạng to lớn và quan trọng nhằm tập trung xác định rõ vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn; về các hình thức tổ chức sản xuất và quan hệ sản xuất phù hợp, có hiệu quả ở nông thôn; mối quan hệ giữa đô thị - nông thôn, công nghiệp - nông nghiệp và giữa trí thức - nông dân để bảo đảm phát triển bền vững.

Hạn chế và vấn đề đặt ra trong triển khai thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới

Bên cạnh việc ghi nhận những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng sau hơn 20 năm mà đất nước, nhất là khu vực nông thôn đã đạt được, Nghị quyết số 26 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X cũng nhấn mạnh: hiện nay “những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hoá. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc”(3).

Trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chính phủ quyết định đầu tư về hạ tầng và công trình phúc lợi công cộng nhằm tạo sự thay đổi diện mạo nông thôn. Nhưng về lâu dài để có một nông thôn mới phát triển bền vững đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì cần dỡ bỏ rất nhiều rào cản, khắc phục nhiều bất cập trong chính sách, như chính sách thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào nông nghiệp, nông thôn. Số doanh nghiệp đứng chân ở nông thôn còn quá ít. Doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này hiệu quả cũng thấp và thiếu ổn định, thường đẩy rủi ro về phía người sản xuất. Hoặc chính sách giảm rủi ro cho người nông dân trong sản xuất nông, lâm, thủy sản chưa đủ để chia sẻ gánh nặng rủi ro,v.v..

Sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam hiện nay chưa có sức cạnh tranh cao, chưa đủ khả năng nâng vị thế quốc gia trên trường quốc tế về nông phẩm hàng hóa.

Trong quá trình xây dựng nông thôn mới chúng ta đang gặp phải 2 mâu thuẫn lớn là: mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ với thị trường lớn; mâu thuẫn giữa hiệu quả thấp với rủi ro cao. Cần có chính sách, biện pháp giải quyết tốt các mâu thuẫn nêu trên để thu hút doanh nghiệp về nông thôn, đó là cách tốt nhất để huy động nguồn lực và tạo ra cầu nối nông dân - doanh nghiệp - thị trường.

Phải tạo cơ hội thế nào cho cư dân nông thôn tham gia đầu tư không chỉ cho sản xuất của riêng mình, mà còn chia sẻ lợi ích, thành quả hoạt động sản xuất kinh doanh với cộng đồng?

Hình thành "giá đỡ" hữu hiệu cho nông dân yên tâm sản xuất thông qua thể chế bảo hiểm, như bảo hiểm sản phẩm dễ rủi ro trước thiên tai và những biến động khó kiểm soát khác; bảo hiểm cho người nông dân khi bị thu hồi đất; bảo hiểm cây trồng, vật nuôi; bảo hiểm cho người lao động quá tuổi và trẻ em…

Tạo môi trường tốt nhất cho các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với trình độ cư dân từng xã, làng, từng loại hình sản phẩm cây trồng, vật nuôi, làng nghề; tạo điều kiện để nông dân góp vốn bằng đất với doanh nghiệp tham gia mua cổ phần ở các doanh nghiệp đóng trên địa bàn.

Đồng thời, củng cố, xây dựng các tổ chức xã hội vì lợi ích trực tiếp của chính cư dân nông thôn. Các hội, đoàn thể của dân phải thực sự là tổ chức của họ, đại diện cho dân giám sát hoạt động của các cấp chính quyền, tổ chức Đảng, bảo đảm nguyên tắc dân chủ, công khai trong thôn xã, giúp họ định hướng phát triển sản xuất, giữ gìn bản sắc văn hoá, cùng nhau khắc phục khó khăn trong đời sống và phòng, chống các tệ nạn xã hội, bảo đảm an ninh trong làng xã, giúp nhau làm giàu chính đáng.

Các cơ chế chính sách, các nội dung cụ thể của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, lộ trình và cách thực hiện… trong một thời gian khá dài nên không chỉ phía trước mà ngay trong hiện tại cũng đang đặt ra nhiều khó khăn, thách thức, nhiều bất cập rất cần được khảo sát, đánh giá, bàn thảo. Chẳng hạn, một bộ phận cán bộ và người dân chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của Nghị quyết của Đảng và mục tiêu của Chương trình xây dựng nông thôn mới. Theo đánh giá của Trung ương, sau hơn 2 năm thực hiện thí điểm tại 11 xã trên các vùng miền cả nước, đã dần dần hình thành được “hình hài” của mô hình nông thôn mới thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, nhưng mới chỉ ở cấp độ các xã thí điểm và còn rất nhiều khó khăn. Để nhân rộng các mô hình cần tiếp tục phải thảo luận. Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới chỉ bắt đầu được triển khai, nhưng đã xuất hiện tình trạng, các bộ, ngành triển khai chậm, thiếu đồng bộ. Các văn bản hướng dẫn, các cơ chế chính sách ban hành thiếu chuẩn mực và chồng chéo, còn nhiều nội dung xa thực tiễn, khó thực hiện. Cần phải điều chỉnh, khắc phục, đề ra và triển khai quyết liệt những giải pháp tích cực và đồng bộ thì những mục tiêu đặt ra, những kỳ vọng của nhân dân mới có thể đạt được.

Vấn đề quan trọng hàng đầu với nông nghiệp, nông dân, nông thôn là đất đai. Nhiệm vụ được coi là cấp bách đối với xây dựng nông thôn mới hiện nay là  sớm hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2003. Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá cần được sử dụng hiệu quả nhất, hợp lý nhất. Về nội dung này, còn liên quan đến nhiều luật khác như Luật Ngân sách nhà nước và các luật, các chủ trương chính sách cụ thể có liên quan. Chẳng hạn: vấn đề lao động và việc làm cho nông dân thuộc diện thu hồi đất, vấn đề đào tạo nghề; vấn đề quy hoạch các làng nghề, bảo đảm các vành đai xanh an toàn cho môi trường và xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường; vấn đề dân số, vấn đề bảo đảm y tế, giáo dục, an sinh xã hội, bình đẳng và dân chủ ở nông thôn, phát huy hiệu lực lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức Đảng và chính quyền; vấn đề bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống và tích hợp văn hóa mới, tạo điều kiện để người dân nông thôn vừa là chủ thể giữ gìn, vừa là người tham gia sáng tạo các giá trị văn hóa mới cũng cần được bàn sâu trong quá trình xây dựng nông thôn mới; vấn đề thu hút các nguồn lực đầu tư, trong đó có thu hút đầu tư nước ngoài vào sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn. Đến nay, chúng ta chỉ mới tập trung điều chỉnh tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn, trong khi các cơ chế chính sách về khuyến khích tăng đầu tư từ các thành phần kinh tế khác, về tăng cường phân cấp thu chi ngân sách cho các địa phương; về việc gắn ưu đãi để thu hút doanh nghiệp trên lĩnh vực nông nghiệp ở địa bàn nông thôn với xây dựng các quỹ bảo đảm an toàn cho môi trường và duy trì sự chia sẻ lợi ích với người dân khi doanh nghiệp khai thác và sử dụng tài nguyên chưa được ban hành đồng bộ; những quy định, cơ chế đã có thì được thực thi chưa nghiêm.

Người dân ở nông thôn vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và đồng bào dân tộc, miền núi tuy đã và đang thụ hưởng một số chính sách ưu đãi của Chính phủ, đời sống bước đầu được cải thiện nhưng vẫn còn rất nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức. Xây dựng làng bản nông thôn mới, giảm tối đa sự chênh lệch giàu nghèo, giúp họ vươn lên để sống khá hơn, tốt hơn là công việc còn nhiều khó khăn, nhiều việc phải làm.  

Để đạt được 19 tiêu chí theo quy định của Thủ tướng Chính phủ là không dễ dàng, nhưng chúng ta đều thống nhất cao: việc xây dựng nông thôn mới là tạo ra những giá trị mới của nông thôn Việt Nam, một nông thôn hiện đại phải hàm chứa những giá trị kinh tế mới, có văn hóa nông thôn văn minh, hiện đại nhưng vẫn gìn giữ, bảo tồn được bản sắc văn hóa dân tộc. Vì vậy, xây dựng nông thôn mới phải gắn liền với phát triển văn hóa. Làm sao để nông thôn vừa là nơi bảo vệ, lưu giữ, vừa là môi trường tốt đẹp nhất tiếp tục tạo ra những giá trị văn hóa mới văn minh và hiện đại. Ở đó những người nông dân vừa là chủ thể sáng tạo, vừa được thụ hưởng các giá trị văn hóa mới để họ có ý thức hơn trong việc bảo tồn giá trị, các trầm tích văn hóa của cha ông.

Để Hội thảo thực sự hiệu quả và đạt mục tiêu đề ra, đề nghị các đồng chí đại biểu, các nhà khoa học tập trung thảo luận bốn nội dung lớn sau:

1. Làm thế nào để tiếp tục quán triệt Nghị quyết của Đảng, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới của Chính phủ tới toàn thể cán bộ, nhân dân từ Trung ương đến địa phương một cách tốt nhất, tạo được sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận, hưởng ứng tích cực, sâu rộng của toàn xã hội với sự nghiệp xây dựng nông thôn mới trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.

2. Thực tiễn triển khai thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới ở các địa phương hiện nay thì cách làm đã phù hợp chưa? Đã đạt được những thành tựu nổi bật nào? Những vấn đề gì đang đặt ra? Những vướng mắc gì đang cản trở? Và nguyên nhân của những vấn đề trên.

3. Làm thế nào để đẩy nhanh việc ban hành và hướng dẫn thực hiện đồng bộ các chính sách để tháo gỡ những vướng mắc trong tổ chức thực hiện?

4. Đề xuất những giải pháp đột phá, khả thi vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp bách trước mắt nhằm tập trung nỗ lực, triển khai hiệu quả các nhiệm vụ đã nêu trong Nghị quyết số 26 của Trung ương Đảng, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Chương trình xây dựng nông thôn mới của Chính phủ về các nội dung:

- Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn;

- Xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn cả đồng bằng, miền núi và ven biển.

- Đẩy mạnh triển khai Chương trình xây dựng nông thôn mới để nâng cao nhanh, rõ rệt hơn đời sống vật chất tinh thần của cư dân nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị;

- Tiếp tục nỗ lực xóa đói giảm nghèo nhanh, bền vững;

- Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả của các hình thức tổ chức sản xuất theo hướng chú trọng phát triển hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp, nông thôn;

- Tăng mạnh nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, bảo đảm đầu tư từ ngân sách nhà nước sau 05 năm để có thể tăng gấp đôi như mục tiêu Chương trình đã đề ra;

- Phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa nông thôn;

- Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, phát huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là Hội Nông dân./.


--------------------------------------------

(1) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 125-126

(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 197-198

(3) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy đã dẫn, tr. 122-123