TCCSĐT - Cách đây 40 năm (20-9-1977 - 20-9-2017), Việt Nam chính thức gia nhập Liên hợp quốc. Đây là sự kiện quan trọng mở ra chương mới trong chính sách “đa phương hóa, đa dạng hóa” quan hệ đối ngoại của Việt Nam. Trải qua những chặng đường, cùng với sự đóng góp tích cực, Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ quan trọng của Liên hợp quốc và vị thế của chúng ta cũng dần được nâng cao trên trường quốc tế.
Thành viên tích cực, có trách nhiệm

Trong 40 năm qua, Việt Nam luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm của mình, chủ động đưa ra nhiều sáng kiến thiết thực có tính khả thi cao. Việt Nam luôn ủng hộ các mục tiêu hàng đầu của Liên hợp quốc như duy trì hòa bình và an ninh; chống chạy đua vũ trang và thực hiện giải trừ quân bị; ngăn ngừa và giải quyết các tranh chấp, xung đột bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế; tăng cường quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc…

Việt Nam đã chủ động đóng góp tiếng nói về những vấn đề liên quan đến hòa bình, ổn định, hợp tác ở khu vực; giải quyết tranh chấp trên biển Đông trên cơ sở tôn trọng Luật Biển quốc tế năm 1982; góp phần đưa Ðông Nam Á trở thành một khu vực hòa bình, hữu nghị, hợp tác, không có vũ khí hạt nhân, một Cộng đồng ASEAN vững mạnh.

Việt Nam cũng là nước tham gia ký kết nhiều điều ước quốc tế do Liên hợp quốc tổ chức. Năm 2009, Việt Nam đã được bầu làm Chủ tịch luân phiên Hội nghị giải trừ quân bị; từ năm 2014 đến nay Việt Nam đã cử 26 lượt sỹ quan tham gia vào hoạt động gìn giữ hòa bình trên một số lĩnh vực như: công binh, quân y tại Cộng hòa Trung phi và Nam Sudan.

Trên cương vị Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc năm 2009, Việt Nam lần đầu tiên đưa ra sáng kiến tham vấn các thành viên Liên hợp quốc về báo cáo công tác năm của Hội đồng Bảo an và được nhiều nước đánh giá cao. Việt Nam tích cực tham gia thảo luận giải quyết các vấn đề quan tâm chung về kinh tế, xã hội, văn hóa, nhân đạo và nhân quyền, đồng thời đóng góp vào việc cải tổ các cơ quan Liên hợp quốc theo hướng mở rộng minh bạch, dân chủ và hiệu quả.

Việt Nam đã hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với các nước. Năm 2006, Việt Nam là một trong 8 nước thực hiện thí điểm Sáng kiến “Thống nhất hành động” và triển khai thành công Sáng kiến này. Năm 2015 khi thăm Việt Nam và tham dự Hội nghị đánh giá kết quả hoạt động gìn giữ hòa bình, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon đã phát biểu: “Đối với kết quả mà các sĩ quan Việt Nam đã làm trong lĩnh vực tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, thì tôi chỉ có một từ để nói, đó là “Tuyệt vời!”.

Ngày 15-9 vừa qua, tại Lễ kỷ niệm 40 năm Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc ở Geneva, Tổng Thư ký Antonio Guterres đã hoan nghênh những đóng góp của Việt Nam đối với việc thực hiện sứ mạng và nguyên tắc của Liên hợp quốc và đánh giá cao quyết tâm của Việt Nam thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững, Kế hoạch thực hiện Đề án đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội 2017-2025, đồng thời là nước đi đầu trong Sáng kiến “Thống nhất hành động”, Sáng kiến ứng phó với EL Nino. Tổng Thư ký Antonio Guterres mong muốn quan hệ Việt Nam - Liên hợp quốc sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong 40 năm tới.

Lợi ích hội nhập và phát triển


Trong giai đoạn 1977-1986, Việt Nam tập trung vào khắc phục hậu quả chiến tranh. Liên hợp quốc đã tích cực giúp giải quyết những khó khăn nhiều mặt với tổng viện trợ đạt hơn 500 triệu USD. Tài trợ cho Việt Nam thông qua các Chương trình, đã hỗ trợ đáng kể cho đầu tư của Việt Nam trong các hạng mục phát triển an sinh xã hội.

Đến giai đoạn 1986-1996, quan hệ Việt Nam- Liên hợp quốc lại tập trung thu hút nguồn lực cho sự nghiệp đổi mới. Theo đó, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là đổi mới chính sách phát triển kinh tế-xã hội.

Vào cuối những năm 1980, Liên hợp quốc chiếm tới gần 60% tổng số viện trợ cho Việt Nam, viện trợ không hoàn lại đã đạt con số trên 630 triệu USD. Liên hợp quốc cũng đã nâng mức hỗ trợ cho Quỹ Phát triển Nông nghiệp, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc, Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc …

Liên hợp quốc đã xác định các ưu tiên đối với Việt Nam là: thúc đẩy cải cách, xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững; chuyển từ hỗ trợ kỹ thuật sang hỗ trợ các biện pháp cải cách chính sách, thể chế kinh tế, doanh nghiệp Nhà nước, hành chính công, luật pháp, phát triển hệ thống ngân hàng; thực hiện quy chế dân chủ, quyền bình đẳng nam nữ, tổ chức Nhóm tư vấn các nhà tài trợ; thúc đẩy cải cách và sửa đổi nhiều bộ luật quan trọng...

Từ năm 2012-2016, quan hệ Việt Nam - Liên hợp quốc hướng tới nâng cao chất lượng phát triển với việc ưu tiên 3 lĩnh vực trọng tâm là: Chất lượng tăng trưởng; bảo trợ xã hội và tiếp cận các dịch vụ xã hội; tăng cường tiếng nói và nâng cao quản trị công.

Sự hợp tác giữa Việt Nam - Liên hợp quốc, tuy tổng số tiền viện trợ trong 40 năm qua chỉ hơn 2 tỷ USD, nhưng đã có ý nghĩa hết sức to lớn, vì Liên hợp quốc tập trung hỗ trợ nhiều lĩnh vực thiết yếu về phát triển kinh tế, xây dựng thể chế, pháp luật, giải quyết nhiều vấn đề xã hội cấp bách.

Trong giai đoạn 2017-2021, hai bên đang hướng tới 3 lĩnh vực trọng tâm là tăng trưởng bền vững, tăng cường tiếp cận các dịch vụ thiết yếu chất lượng cao, bảo trợ xã hội, và thúc đẩy quản trị công nhằm hỗ trợ Việt Nam thực hiện hiệu quả các chiến lược phát triển.

Các chương trình đều tập trung vào việc hỗ trợ Việt Nam thực hiện Kế hoạch Phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2016-2020, các Mục tiêu Phát triển bền vững với 4 ưu tiên: (1) Đầu tư vào Con người; (2) Đảm bảo thích ứng với Biến đổi Khí hậu và phát triển môi trường bền vững; (3) Thúc đẩy sự Thịnh vượng và Quan hệ Đối tác; (4) Tăng cường Công lý, Hòa Bình và Quản trị toàn diện. Với tổng ngân sách dự kiến là 423.348.650 USD.

Quy mô nền kinh tế tăng nhanh

Trong suốt 40 năm qua, đặc biệt là trong 30 đổi mới, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; giai đoạn 1996-2000, mặc dù chịu tác động của khủng hoảng tài chính khu vực (1997-1999), GDP vẫn duy trì bình quân tăng 7,6%/ năm; giai đoạn 2001-2005, GDP tăng bình quân 7,34%; giai đoạn 2006-2010, do suy giảm kinh tế thế giới, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giảm xuống còn 6,32%/năm.

Trong các năm tiếp theo, do chịu tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 và khủng hoảng nợ công 2010, tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2011-2015 của Việt Nam đã chậm lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới. Năm 2016, dù gặp nhiều biến động, kinh tế Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng 6,21%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, giảm khu vực nông nghiệp, tăng khu vực dịch vụ và công nghiệp. Tính đến năm 2016, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm tỷ trọng xấp xỉ 16,32% trong khi đó, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm trên 37,72% và khu vực dịch vụ chiếm trên 40,92%. Ngoài ra, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,04%.

Về thu nhập bình quân đầu người, nếu như sau 17 năm đổi mới, năm 2003, GDP bình quân đầu người ở Việt Nam mới chỉ đạt 471 USD/năm thì đến năm 2016, con số này đã tăng lên khoảng 2.215 USD (tương đương 48,6 triệu đồng). Những nỗ lực đổi mới trong 30 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Tính riêng năm 2016, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt trên 1.485 nghìn tỷ đồng; đầu tư trực tiếp của nước ngoài thu hút 2.556 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 15,182 tỷ USD.

Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu có cải thiện đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu thường xuyên tăng với tốc độ hai con số, giai đoạn 2011-2015 tăng đến 18%/năm, năm 2016 tăng 10,6%. Xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng sản phẩm công nghiệp và giảm dần tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp, giảm dần sản phẩm nguyên liệu thô. Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn hoá cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp... Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá.

Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Đặc biệt, công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010 và giảm xuống còn khoảng 5,8%-6,0% năm 2016 (nếu theo chuẩn nghèo đa chiều, tỷ lệ hộ nghèo năm 2016 là khoảng 10%).

Công tác y tế, giáo dục đạt được nhiều thành tựu. Tính đến cuối năm 2016, cả nước có 59/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Nhờ đó, người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cũng được chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân.

Vị thế nâng cao trên trường quốc tế

Trong suốt 40 năm qua, Việt Nam luôn tiến hành chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, rộng mở, “đa phương hoá, đa dạng hoá” quan hệ quốc tế; bạn bè nhận thấy ở Việt Nam một người bạn, một đối tác tin cậy, có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế.

Vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về “thêm bạn, bớt thù” và đường lối đối ngoại của Đảng “mở rộng sự hợp tác và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế”, quan hệ với Liên hợp quốc đã giúp phá thế bao vây, cấm vận, góp phần củng cố môi trường hòa bình, an ninh đồng thời tranh thủ các nguồn lực đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội.

Từ những năm 1990 đến nay, trên cơ sở chủ trương của Đảng, Việt Nam đã tích cực, chủ động, có trách nhiệm trong tham gia các công việc tại Liên hợp quốc, góp phần nâng cao vị thế quốc tế, đấu tranh bảo vệ các lợi ích thiết thân của Việt Nam, nhất là trên các vấn đề an ninh, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, trong đó có nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giải quyết hòa bình các tranh chấp, đảm bảo lợi ích chính đáng của tất cả các thành viên, nhất là các nước chậm phát triển.

40 năm gia nhập với 30 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức của Việt Nam theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Chúng ta đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Cho đến nay đã có 59 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam.

Việt Nam đã ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) khu vực và song phương. Việc tham gia ký kết và đàm phán tham gia các FTA có tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm, nhất là việc Việt Nam tham gia vào ba chuỗi giá trị có vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu là: chuỗi giá trị lương thực và an ninh lương thực; chuỗi giá trị năng lượng và an ninh năng lượng (dầu mỏ, khí, than) và chuỗi giá trị hàng dệt may và da giầy.

Ghi nhận những đóng góp nhiều mặt của Việt Nam vào công việc của Liên hợp quốc, các quốc gia thành viên đã tín nhiệm bầu Việt Nam là Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an (2008-2009); Việt Nam đã ứng cử thành công vào Hội đồng Nhân quyền (2014-2016), vào ECOSOC (2016-2018); Đăng cai tổ chức Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới (IPU) lần thứ 132 (2015), được bầu vào Hội đồng Thống đốc Tổ chức Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO và Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (2014-2016) với số phiếu rất cao; và chính thức ứng cử vào Hội đồng Bảo an (2020-2021), đã thể hiện uy tín và lòng tin của cộng đồng quốc tế dành cho Việt Nam.

Lãnh đạo cấp cao Việt Nam đã tham dự và có nhiều ý kiến đóng góp quan trọng về phương hướng, ưu tiên của Liên hợp quốc tại các diễn đàn của Liên hợp quốc. Việt Nam cũng đã đón nhiều đoàn cấp cao của Liên hợp quốc vào thăm, trong đó có các Tổng Thư ký Liên hợp quốc như: ông Kophi Anan (2006), ông Ban Ki-mun (2010 và 2015), qua đó góp phần thắt chặt hơn nữa quan hệ Việt Nam - Liên hợp quốc.

Với đường lối đối ngoại rộng mở của Đảng và Nhà nước Việt Nam, trải qua 40 năm quan hệ Việt Nam - Liên hợp quốc với những bước phát triển vượt bậc trên tất cả phương diện và trên nhiều cấp độ khác nhau, đã không ngừng nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần quan trọng vào việc duy trì nền hòa bình, ổn định, phát triển tại khu vực và trên thế giới, đưa lại niềm tự hào cho dân tộc Việt Nam, trong một tổ chức có quy mô lớn nhất hành tinh này.

Năm 2017, Việt Nam vinh dự đảm nhận vai trò chủ nhà Năm APEC 2017. Điều này thể hiện sự tín nhiệm cao của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam. Có được vị thế như hôm nay không thể không kể đến những thành tựu quan trọng và to lớn mà nước ta đạt được trong những năm đổi mới. Thành công ấy không chỉ làm thay đổi cuộc sống của nhân dân trong nước mà còn nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đưa Việt Nam trở thành một trong số những nền kinh tế đi đầu APEC trong tăng trưởng và liên kết khu vực./.