Đổi mới cách xây dựng chiến lược

Đỗ Quốc Sam
16:01, ngày 28-10-2008

Hiện nay là thời điểm thích hợp để triển khai nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước thời kỳ 2011 - 2020. Vấn đề đầu tiên cần xem xét là xây dựng chiến lược (bao gồm cả nghiên cứu, chuẩn bị, hình thành và thực hiện) như thế nào cho thực sự có hiệu quả cao. Tình hình trong và ngoài nước những năm qua đã có nhiều thay đổi, bài học xây dựng và thực hiện hai kỳ chiến lược trong nước (1991 - 2000 và 2001 - 2010) và kinh nghiệm nghiên cứu chiến lược ở nước ngoài có thể cho chúng ta nhiều gợi ý. Bài viết giới thiệu một số ý tưởng về chiến lược 2011 - 2020.

1 - Một số gợi ý từ tình hình trong và ngoài nước

a - Một số nhận xét và kinh nghiệm rút ra qua hai lần xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000 và 2001 - 2010:

- Tuy 2 bản chiến lược được nghiên cứu nghiêm túc và chu đáo, song nhược điểm chung là đều làm theo cách truyền thống, nội dung dàn trải, những vấn đề chính sách được nghiên cứu không sâu. Chiến lược có bóng dáng của một bản kế hoạch dài hạn.

- Chiến lược được chuẩn bị xây dựng và thông qua rất công phu, chặt chẽ, song khi đi vào thực hiện lại thiếu theo dõi, đánh giá một cách khoa học để thực thi một cách đồng bộ và cân đối, làm giảm đáng kể hiệu quả của công sức nghiên cứu.

- Để có thể đánh giá về năm xuất phát (năm 2011) của thời kỳ chiến lược mới (2011 - 2020), cần có ước lượng kết quả thực hiện chiến lược hiện hành (2001 - 2010). Tuy còn sớm, song cũng có thể tiên đoán kế hoạch 5 năm (2006 - 2010) có nhiều khả năng thực hiện được những mục tiêu chủ yếu, thậm chí một số mục tiêu có thể đạt sớm 1 - 2 năm, nhưng mục tiêu 10 năm là "tạo nền tảng để năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại" thì cần phân tích sâu sắc.

Nếu coi "nền tảng" là kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, vật chất và phi vật chất, thì có thể dự đoán rằng phần vật chất (GDP, tỷ trọng công nghiệp, FDI, đô thị hóa...) sẽ có tiến triển khá, còn phần phi vật chất (giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, nguồn nhân lực, công bằng xã hội...) thì tiến triển chậm hơn. Nếu coi "nền tảng" là một tỷ lệ nhất định (thí dụ trên 50%) của chặng đường công nghiệp hóa thì còn khá nhiều công việc phải làm, nhất là khi đi con đường công nghiệp hóa kết hợp hiện đại hóa ngay từ đầu và suốt quá trình phát triển.

Tuy nhiên, nếu tính toán giá trị tuyệt đối thì còn những chỉ tiêu chưa đủ chắc chắn. Song nhìn về xu thế và nhịp độ chuyển biến cả về kinh tế và xã hội, thì chúng ta có cơ sở để hy vọng rằng phần nền tảng cho công nghiệp hóa sớm có thể được bổ sung để tạo tiền đề cho bước phát triển khả quan hơn sắp tới. Như vậy, trong 3 năm còn lại của thời kỳ chiến lược hiện hành, cần đẩy mạnh đồng bộ công cuộc cải cách và đổi mới để tạo nền tảng và tiền đề cho sự phát triển cao hơn khi bước vào thời kỳ chiến lược mới.

b - Mấy vấn đề đáng chú ý về tình hình ngoài nước:

- Có người nghĩ rằng hoạch định chiến lược đã trở thành công việc lỗi thời, song theo các tài liệu quốc tế, hiện nay ở nhiều nước người ta vẫn nghiên cứu và xây dựng các bản chiến lược khá dày về số trang và phong phú về nội dung, chỉ có điều là cách xây dựng chiến lược có khác trước.

Rất hiếm thấy kiểu soạn thảo chiến lược mang tính toàn diện, tỉ mỉ, như một bản kế hoạch kinh tế - xã hội dài hạn, ngược lại, nhiều bản chiến lược được xây dựng cho các vùng tương đối hẹp mà các điều kiện cụ thể có thể nắm bắt dễ dàng, như một thành phố, một vùng mới khai phá, hoặc cho một chuyên ngành, một lĩnh vực kinh tế - xã hội, như chiến lược công nghệ thông tin, hay chiến lược môi trường cho một vùng lãnh thổ. Những bản chiến lược "phát triển bền vững" của nhiều nước được nghiên cứu theo khuyến nghị của các hội nghị thượng đỉnh về môi trường và Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, tuy phạm vi có rộng hơn, song vẫn tập trung vào một mục tiêu tổng hợp và thống nhất.

- Tuy có thể dự đoán được xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển vượt bậc của khoa học và công nghệ, nhưng nhiều sự kiện đột biến trên thế giới lại khiến người ta khó, thậm chí không thể lường trước được, như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á cuối thế kỷ XX hay hoạt động khủng bố nhằm vào nước Mỹ đầu thế kỷ XXI, khủng khoảng tín dụng địa ốc ở Mỹ lây lan ra cả thế giới đầu năm 2008. Vì vậy, những dự báo chiến lược, kể cả của những tổ chức dự báo nổi tiếng, cũng chỉ là tương đối và phụ thuộc vào những điều kiện nhất định.

- Để chọn tìm một chỗ đứng trên trường quốc tế vào cuối thời kỳ chiến lược, cần tìm hiểu, dự đoán bối cảnh thế giới đến năm 2020. Đây là một vấn đề khó, cần có thời gian nghiên cứu. Trước mắt nếu dựa trên những tư liệu sẵn có, chỉ có thể phác họa khái quát làm cơ sở cho việc phân tích sâu hơn.

Nhiều dự báo cho rằng trong mươi năm tới, có nhiều khả năng các xu hướng cách mạng công nghệ, tin học hóa, tri thức hóa, toàn cầu hóa sẽ tiếp tục được mở rộng và nâng cao, và nếu các quá trình ấy không bị cản trở thì khoảng năm 2020 nền kinh tế tri thức có thể được định hình, một số không nhiều các nước tiên tiến bước vào giai đoạn phát triển của kinh tế tri thức, một số nước đang phát triển có thể đi vào giai đoạn đầu kinh tế tri thức. Trên bản đồ kinh tế thế giới, nước Mỹ vẫn đứng ở hàng đầu, các cực kinh tế châu Âu, châu Á chưa đủ sức át các cực khác; kinh tế châu Á với 3 nước mạnh (Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản) có thể chiếm gần một nửa kinh tế thế giới, song cũng chưa tạo được vị thế áp đảo. Nếu kịp hình thành khu vực kinh tế tự do, thì Đông - Nam Á sẽ có vai trò quan trọng hơn với kinh tế châu Á và kinh tế thế giới.

Triển vọng đó có thể tạo ra cho chúng ta nhiều cơ hội. Vấn đề là chúng ta có đủ sức tận dụng những cơ hội đó để đối phó với những thách thức bên ngoài và cả bên trong của chính chúng ta hay không.

2 - Đổi mới cách xây dựng chiến lược

a - Trước hết cần làm rõ vai trò và vị trí của chiến lược trong các bước nghiên cứu kế hoạch hóa phát triển, bao gồm cương lĩnh, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, chương trình, dự án phát triển, chủ yếu là mối quan hệ giữa chiến lược và cương lĩnh, giữa chiến lược và quy hoạch, kế hoạch, để tránh bỏ sót, trùng lắp và thiếu nhất quán.

Về mặt lý thuyết, cương lĩnh, chiến lược, quy hoạch và kế hoạch đều thuộc về một dòng kế hoạch hóa, đều đi từ mục tiêu đến các giải pháp thực hiện, nhưng khác nhau ở độ dài thời gian, ở mức độ khái quát, định tính, ở điều kiện khống chế, chỉ đạo, những yếu tố này giảm dần từ cương lĩnh đến kế hoạch, bước sau phụ thuộc vào bước trước đồng thời lại khống chế bước tiếp theo.

Từ đó cũng có thể suy ra, chiến lược không thể xây dựng chi tiết cụ thể như một bản kế hoạch, càng không thể giống như một bản kế hoạch dài hạn như đã được kinh nghiệm trong và ngoài nước khẳng định.

Mặt khác, chiến lược và cương lĩnh cũng hoàn toàn khác nhau cả về mục đích, thời gian, nội dung và cách nghiên cứu. Vì vậy, chúng không thể thay thế cho nhau hoặc trùng lặp với nhau, gây khó khăn cho việc áp dụng.

b - Để tránh đi vào con đường của kế hoạch dài hạn mà vẫn bảo đảm tính hoàn chỉnh, toàn cục và lâu dài, chiến lược nên được xây dựng theo mục tiêu, theo một chủ đề thống nhất và nhất quán. Thí dụ như "Chiến lược đưa nước ta lên hàng các nước có thu nhập trung bình khá". Chiến lược theo mục tiêu có thể có mấy lợi thế sau:

- Tính định hướng của sự phát triển rất rõ ràng, rành mạch, điều này rất cần thiết đối với nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ mục tiêu chính có thể xác định hệ các mục tiêu cụ thể, bảo đảm đều hội tụ theo một hướng thống nhất.

- Các giải pháp chiến lược đều hướng vào một chủ đề, vừa giữ được tính nhất quán của hệ thống vừa có thể hỗ trợ lẫn nhau, nâng cao được hiệu quả của giải pháp và tạo ra một nền chung thuận lợi cho các giải pháp đột phá rất cần thiết cho việc thực hiện các mục tiêu chiến lược.

- Đi theo một hệ mục tiêu thống nhất và những giải pháp mấu chốt nhất quán, có thể tránh được việc tìm kiếm các cân đối quá cụ thể trong thời gian dài, nhưng vẫn xử lý được những cân đối cơ bản, nhờ đó các vấn đề kinh tế xã hội cụ thể hoặc có thể tự động giải quyết, hoặc có những tiền đề tốt để xử lý.

- Chiến lược theo chủ đề có tính khả thi cao vì quá trình nghiên cứu sẽ rất tập trung, đồng thời lại tránh được những khó khăn về cân đối theo thời gian dài không thể khắc phục được.

Có thể chọn mục tiêu năm 2020 "đưa nước ta lên nhóm các nước hàng đầu khu vực Đông - Nam Á", hoặc "đưa nước ta lên hàng các nước có thu nhập trung bình cao trên thế giới", hoặc "đưa nước ta trở thành nước công nghiệp" ...

So sánh các chủ đề có thể đề xuất, hợp lý hơn cả là chọn mục tiêu "năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại", vì những lý do sau:

- Từ nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã nhiều lần nhấn mạnh phấn đấu hết sức để đạt mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào năm 2020, nay không có lý do gì để sao nhãng mục tiêu đó.

- Trở thành một nước công nghiệp là một mục tiêu hoàn chỉnh, toàn cục, dài hạn, hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của mục tiêu chiến lược. Từ yêu cầu công nghiệp hóa có thể xác định rõ ràng các mục tiêu thành phần về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường cũng như sự đồng bộ giữa các ngành, các cấp và sự hài hòa giữa các vùng, miền, cộng đồng, có thể thu hút sự quan tâm và quyết tâm phấn đấu của toàn dân cho mục đích chung.

- Cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào khoảng năm 2020 đối với hoàn cảnh nước ta không phải là một mục tiêu bất khả thi, nếu tính đến kinh nghiệm của nước ta trong hơn 20 năm đổi mới và những bài học bổ ích của các nước công nghiệp hóa mới ở châu á trong ba chục năm cuối thế kỷ trước.

c - Từ những năm 60 thế kỷ XX, nhiều nước thế giới thứ ba đi tìm con đường phát triển và hiện đại hóa sau khi giành được độc lập, đã sốt sắng bắt chước các mô hình truyền thống, song gặp nhiều trắc trở và ít nước thành công. Duy một số ít nước châu Á và Mỹ La - tinh đã tìm cách khắc phục những nhược điểm của mô hình truyền thống và đạt được mục tiêu công nghiệp hóa, tạo thành con đường công nghiệp hóa "kiểu mới". Đáng kể là những nước công nghiệp hóa mới (NIC) ở Đông Á đã thành công trong một thời gian ngắn kỷ lục. Kinh nghiệm của các "con rồng" Đông Á chủ yếu là áp dụng chiến lược phát triển hướng về xuất khẩu, đề cao vai trò nhà nước trong cơ chế thị trường và tận dụng điều kiện môi trường quốc tế thuận lợi về vốn và công nghệ. Một số nước khác cũng đang khai thác những kinh nghiệm này (các "con hổ" châu Á) nhưng kết quả chậm hơn.

Chậm bước hơn các "con rồng" châu Á có mô hình một số nước kinh tế chuyển đổi (Trung Quốc, Việt Nam, ...) tìm con đường công nghiệp hóa tương tự và phù hợp với đặc thù của mỗi nước. Mô hình công nghiệp hóa kiểu mới của Trung Quốc theo hướng "hàm lượng kỹ thuật cao, hiệu ích kinh tế tốt, tiêu hao tài nguyên thấp, ô nhiễm môi trường ít, nhân lực phát huy đầy đủ" được đề xuất năm 2002 (Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc). Ở nước ta, từ giữa nhiệm kỳ Đại hội VII, Đảng ta đã đề ra chủ trương công nghiệp hóa rút ngắn thời gian, gắn kết với hiện đại hóa trong cùng một quá trình, theo cách diễn đạt "công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của Đại hội VIII và "công nghiệp hóa theo hướng hiện đại" của Đại hội IX. Chúng ta lại cũng đã xây dựng chương trình phát triển bền vững theo chỉ dẫn của Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, ngoài phát triển kinh tế còn coi trọng cả các vấn đề xã hội và môi trường.

Theo tinh thần trên, con đường công nghiệp hóa của nước ta phải đồng thời đạt tới những mục tiêu định tính sau:

- Kinh tế phát triển nhanh và vững chắc;

- Phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với phát triển khoa học và công nghệ, coi trọng công nghệ mới, công nghệ cao;

- Phát triển kinh tế hài hòa với chính sách xã hội, thực hiện phát triển đồng đều và công bằng xã hội;

- Bảo vệ và cải thiện môi trường, tiết kiệm tài nguyên.

Phương thức thực hiện công nghiệp hóa của nước ta là nước đi sau, cần rút ngắn thời gian, gắn kết với thị trường hóa, thích ứng với toàn cầu hóa, dựa vào định hướng và hỗ trợ của Nhà nước. Đó cũng là dạng công nghiệp hóa "kiểu mới" vừa thích ứng với yêu cầu của thời đại mới, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta.

d - Công nghiệp hóa cần có mục tiêu định lượng để có thể xác định được hiện nay chúng ta đang còn cách xa mục tiêu bao nhiêu và cần nỗ lực phấn đấu về những mặt nào để sớm hoàn thành được mục tiêu đó.

Cách làm tương đối đơn giản là dùng phương pháp chỉ tiêu: từ các mục tiêu công nghiệp hóa vừa nêu trên, có thể suy ra những tiêu chí công nghiệp hóa, mỗi tiêu chí lại chọn ra một số chỉ tiêu vừa có thể tính toán được, vừa thể hiện đầy đủ các đặc trưng của mỗi tiêu chí. Một mặt, dựa vào kinh nghiệm quốc tế để xác định mỗi chỉ tiêu cần đạt đến tiêu chuẩn của một nước công nghiệp (theo hướng hiện đại). Mặt khác, dựa vào các số liệu thống kê có thể thu thập được để tính toán các chỉ tiêu tương ứng của nước ta và so sánh với chuẩn đã chọn để đánh giá hiện chúng ta đang ở điểm nào trên con đường công nghiệp hóa. Ước lượng mỗi năm nước ta có thể phát triển được bao nhiêu theo mỗi chỉ tiêu, chúng ta sẽ dễ dàng làm rõ thời hạn cần thiết cho công nghiệp hóa của nước ta và sắp xếp các nguồn lực ưu tiên hợp lý để đạt mục tiêu trong thời gian ngắn nhất. Cũng có thể dùng phương pháp gia quyền để quy các chỉ tiêu đánh giá về một chỉ số duy nhất (gần đúng) để dễ so sánh với quốc tế và so sánh theo thời gian.

Các tiêu chí và chỉ tiêu, ngoài những yêu cầu về tính đại diện, tính khả thi, còn cần được chọn sao cho đến và sau năm 2020 vẫn phù hợp với thực tế, vì vậy bên cạnh những phương pháp thống kê học, nên kết hợp dùng phương pháp chuyên gia để có được độ tin cậy cao. Với các trị số chuẩn công nghiệp hóa cho các chỉ tiêu xem xét, có thể dùng số liệu bình quân của các nước phát triển ở thời điểm được coi là đã hoàn thành công nghiệp hóa; riêng đối với các chỉ tiêu liên quan khoa học - công nghệ có thể tham khảo số liệu của các nước công nghiệp hóa mới.

3 - Về các nhiệm vụ chiến lược

a - Tư tưởng chủ đạo

Nếu tư tưởng chủ đạo được hiểu là những ý tưởng xuyên suốt gần như toàn bộ nội dung chiến lược, tạo nên tinh thần đặc thù của chiến lược, thì có thể nêu lên mấy ý sau:

- Chất lượng của sự phát triển phải là yêu cầu chính của chiến lược, bao gồm cả chất lượng của nền kinh tế, chất lượng cân đối kinh tế vĩ mô, chất lượng sản phẩm, chất lượng nguồn nhân lực và giáo dục đào tạo, chất lượng dịch vụ y tế ...

- Phát triển bền vững phải bao quát các nhiệm vụ chiến lược, kết hợp hài hòa các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường, chú ý yếu tố thể chế.

- Vấn đề con người phải là trung tâm của nghiên cứu phát triển giai đoạn mới, trong đó bao gồm các khía cạnh đời sống vật chất (sức khỏe...), đời sống tinh thần (giáo dục đào tạo, hoạt động và hưởng thụ văn hóa ...), cả vấn đề bình đẳng cơ hội và tự do phát triển tài năng để cống hiến cho xã hội.

b - Phương hướng chính sách

Để có những định hướng chính sách vừa xuyên suốt toàn bộ chiến lược lại vừa là điều kiện tiền đề quyết định sự thành công của các nhiệm vụ chiến lược, cần ưu tiên mấy chính sách lớn sau:

- Chính sách thị trường hay là phương hướng thị trường hóa: song song với việc chuẩn bị để sớm được công nhận là nền kinh tế thị trường, kinh tế nước ta cần hoàn thiện thể chế, luật pháp, cơ chế và hình thành các loại thị trường, đồng thời cần nghiên cứu làm rõ vai trò, chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong kinh tế thị trường, cần chủ động hội nhập quốc tế sâu hơn cùng với nâng cao chất lượng và tính hiện đại của thị trường nội địa, để khoảng cách về thị trường trong, ngoài nước thu hẹp dần lại về cung cầu, giá cả, độ tự do và sự liên thông. Sự xích lại gần nhau đó cần được chỉ đạo và chủ động.

- Chính sách hay phương hướng dân chủ hóa: vốn là một mục tiêu hàng đầu của chủ nghĩa xã hội tiến tới "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", trong giai đoạn chiến lược này dân chủ còn là một động lực lớn thúc đẩy sự nghiệp phát triển và đổi mới. Khi người dân ý thức được về quyền làm chủ của mình và thực sự được thực thi quyền dân chủ thì sức mạnh dân tộc sẽ được nâng cao và sự tham gia của nhân dân vào việc quản lý nhà nước và xã hội thông qua các tổ chức xã hội của mình sẽ ngày càng trực tiếp và có hiệu quả. Dân chủ cũng là phương thức quản lý bảo đảm cho an ninh, ổn định và phát triển.

Dân chủ gắn với tự do và bình đẳng, bình đẳng về cơ hội và tự do về phát triển con người, phát triển tài năng để cống hiến. Dân chủ mà chúng ta theo đuổi là dân chủ chân chính, bảo đảm cho ý nguyện của người dân được thể hiện đầy đủ trong quyết sách của Nhà nước.

- Chính sách hay phương hướng pháp chế hóa là xu hướng tiến tới Nhà nước pháp quyền, trong đó các mối quan hệ xã hội đã được thể chế hóa và các thành phần trong xã hội, không kể là người dân bình thường hay nhà quản lý và lãnh đạo, đều hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật. Công việc thể chế hóa đòi hỏi nhiều thời gian, nhất là yêu cầu đồng bộ và tương hợp trong việc phân định quyền hạn và nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động.

- Chính sách phát triển nguồn nhân lực chú trọng nâng cao giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, trong đó đặc biệt quan tâm vấn đề trọng dụng nhân tài, gắn kết giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ với phát triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện thành công các mục tiêu công nghiệp hóa, đồng thời đáp ứng nhu cầu phát triển dài hạn của đất nước.

c - Mô hình công nghiệp hóa

Chiến lược phát triển giai đoạn mới phải giải quyết đồng thời nhiều nhiệm vụ tưởng như mâu thuẫn hoặc khó liên kết: phát triển vừa nhanh lại vừa bền vững, vừa phát triển nhanh kinh tế vừa giải quyết tốt chính sách xã hội, vừa phải mở rộng quy mô, số lượng lại vừa phải coi trọng chất lượng, vừa phát triển các vùng trọng điểm vừa chú trọng vùng sâu, vùng xa, ... Muốn giải bài toán khó đó, cần tìm chọn một mô hình phát triển thực sự thích hợp và điều chỉnh cụ thể từng bước để thích ứng với tình hình thực tế luôn thay đổi.

Giữa mô hình Đông Á và mô hình Đông - Nam Á, giữa mô hình thay thế nhập khẩu hay mô hình ưu tiên xuất khẩu,... chọn mô hình nào hay tự xác định một con đường riêng phù hợp với tình hình cụ thể của nước ta là một vấn đề cần sớm nghiên cứu để khẳng định. Có nhiều khả năng không thể áp dụng hoàn toàn một mô hình có sẵn, vì hoàn cảnh cụ thể của nước ta không giống với các nước đã áp dụng các mô hình đó (kể cả với Trung Quốc), cho nên đầu tư nghiên cứu mô hình phát triển là cần thiết và không thể trì hoãn./.