Được ví như “Việt Nam thu nhỏ”, tỉnh Quảng Ninh hội tụ nhiều giá trị văn hóa đặc sắc của nhiều dân tộc, vùng, miền, kết tinh trong hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể rất phong phú, đa dạng. Hiện Quảng Ninh có 637 di sản văn hóa vật thể (đình, chùa, đền, miếu, danh lam thắng cảnh…); 362 di sản văn hóa phi vật thể (lễ hội, phong tục, tập quán, trò chơi dân gian...), trong đó có 8 di tích quốc gia đặc biệt; 12 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; di sản thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam (trong đó có then nghi lễ người Tày ở huyện Bình Liêu) được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Những năm qua, tỉnh và các địa phương đã huy động nhiều nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực xã hội hóa với trị giá hàng nghìn tỷ đồng trong việc đầu tư tu bổ, tôn tạo, để các di tích này trở thành điểm đến hấp dẫn, thu hút trung bình 6 triệu lượt khách du lịch hằng năm, tiêu biểu như Yên Tử, Cửa Ông, Cái Bầu... Các di sản lớn của tỉnh như Vịnh Hạ Long, Yên Tử, Bạch Đằng đều đã và đang được định hướng để trở thành những di sản thế giới liên vùng. Việc đẩy mạnh xây dựng hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử là Di sản thế giới cũng sẽ tiếp tục góp phần đưa Quảng Ninh trở thành địa danh nổi tiếng toàn cầu, mở ra cơ hội lớn trong giao lưu, hội nhập quốc tế, xây dựng sản phẩm du lịch văn hóa đặc sắc. Bên cạnh đó, tỉnh Quảng Ninh đã có bước đột phá trong việc huy động các nguồn lực đầu tư thiết chế văn hóa, thể thao đồng bộ, hiện đại với các công trình nổi bật, như Cung Quy hoạch, Hội chợ và Triển lãm tỉnh; Quảng trường 30/10; Thư viện, Bảo tàng Quảng Ninh; Cung Văn hóa thanh thiếu nhi tỉnh Quảng Ninh; Trung tâm văn hóa, thể thao vùng Đông Bắc... Qua đó, tạo những điểm đến du lịch hấp dẫn của tỉnh và đưa Quảng Ninh trở thành một trong những trung tâm thu hút tổ chức các sự kiện văn hóa, thể thao cấp quốc gia, quốc tế.

Một số kết quả đạt được trong việc thực hiện chính sách, pháp luật trong quản lý di sản

 Nhằm đưa văn hóa trở thành động lực, mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội, Tỉnh ủy Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày 9-3-2018 “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững”. Theo đó, tỉnh xác định “Xây dựng nền văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh gắn với thu hẹp nhanh khoảng cách giàu nghèo và chênh lệch vùng miền trong tỉnh” là một trong 3 khâu đột phá phát triển kinh tế - xã hội. Luật Di sản văn hóa 2001 đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi để đẩy mạnh sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, bảo đảm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tỉnh Quảng Ninh đã ban hành nhiều văn bản theo thẩm quyền nhằm cụ thể hóa và tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, phát huy giá trị văn hóa trên địa bàn. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa đã có nhiều tiến bộ trong vấn đề phân cấp và kiểm soát thủ tục hành chính. Hiện nay, đã có 18 thủ tục hành chính (trên tổng số 25 thủ tục hành chính) đã được phân cấp từ trung ương về địa phương. Các thủ tục hành chính (TTHC) đều đơn giản, dễ tiếp cận, dễ thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia thực hiện quy định pháp luật về di sản văn hóa. Các TTHC thuộc lĩnh vực liên quan đến di sản văn hoá thực hiện tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh được giải quyết theo đúng yêu cầu, nhanh - gọn, bảo đảm đúng quy trình, không để nảy sinh những vướng mắc, kiến nghị của cá nhân, tổ chức.

Tổ chức bộ máy, đội ngũ quản lý di sản văn hóa, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn về di sản văn hóa được quan tâm, ngày 1-11-2015, thành lập Phòng Quản lý di sản thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Các di tích đã xếp hạng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cơ bản đều có tổ chức, cá nhân bảo vệ và chăm sóc trực tiếp theo hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; hằng năm, các khu di tích này đều cử cán bộ, viên chức đi đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, góp phần nâng cao chất lượng trong công tác quản lý di sản.

Công tác lập, phê duyệt, thực hiện dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích thực hiện theo phân cấp quản lý di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh được quan tâm chỉ đạo, giai đoạn 2018 - 2024 có 03 di tích được lập Nhiệm vụ quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích; 42 dự án tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị từ nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn xã hội hóa. Trong những năm qua, với chính sách khuyến khích đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa của nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác quốc tế về di sản văn hóa. Trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh một số chương trình, kế hoạch khảo sát, thăm dò, khai quật khảo cổ được tiến hành với sự tham gia của chuyên gia nước ngoài như khai quật địa điểm bãi cọc đồng Má Ngựa (năm 2010), thăm dò địa điểm Đồng Chổi năm 2019…Các chương trình hợp tác về bảo tồn di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long.

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý nhà nước đối với các di sản văn hóa, nhằm nâng cao kiến thức và hiểu biết pháp luật cho cán bộ, nhân dân, góp phần ngăn ngừa, hạn chế các hành vi xâm hại, tác động xấu đến các di sản văn hóa. Năm 2022 - 2023, UBND tỉnh đã in hơn 1.000 cuốn tài liệu phổ biến pháp luật về di sản văn hóa (năm 2022: 400 cuốn; năm 2023: 640 cuốn) để cung cấp cho các đối tượng là cán bộ quản lý di sản văn hóa của cấp huyện, cấp xã. Nhằm tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực di sản văn hóa. Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các thông tin, đại chúng, mạng xã hội, cổng thông tin điện tử các huyện, thành phố và hệ thống truyền thanh cơ sở; tuyên truyền trực quan (băng rôn, banner, bảng nội quy tại di tích…); tuyên truyền lồng ghép tại các hội nghị tổng kết, hội nghị tọa đàm nhân kỉ niệm ngày Di sản văn hóa Việt Nam...

Công tác thanh tra, kiểm tra về di sản văn hóa được tiến hành thường xuyên, liên tục tại các di tích, lễ hội. Qua các cuộc thanh tra, kiểm tra, giám sát công tác quản lý, công tác chuẩn bị tổ chức lễ hội trên địa bàn tỉnh kịp thời ngăn chặn, phòng ngừa các vi phạm trong hoạt động lễ hội, đặc biệt là các hành vi lợi dụng di tích, lễ hội, tín ngưỡng để trục lợi; hoạt động mê tín dị đoan, cờ bạc; tổ chức lễ hội gây tốn kém, lãng phí; kiểm tra, giám sát công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật; tuyên truyền về lịch sử di tích và lễ hội để nhân dân đến chiêm bái thực hiện nếp sống văn minh và thuần phong mỹ tục của dân tộc trong hoạt động di tích, lễ hội

Quảng Ninh xác định tăng cường giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật trong quản lý di sản văn hoá nhằm đánh giá khách quan, toàn diện tình hình và kết quả thực hiện chính sách, pháp luật; tính kịp thời, đầy đủ, đồng bộ, khả thi của chính sách, pháp luật về bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh; thực trạng, tình hình thực hiện chính sách, pháp luật; kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế, bất cập; nguyên nhân; bài học kinh nghiệm, đặc biệt là bài học kinh nghiệm về việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh. Qua đó đề xuất, kiến nghị những giải pháp để các cơ quan có thẩm quyền giải quyết, xử lý nhằm phát huy các kết quả đạt được, kịp thời khắc phục những tồn tại, hạn chế, trong đó giao trách nhiệm cụ thể cho từng chủ thể có liên quan thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền với thời hạn, lộ trình cụ thể, phù hợp.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì hiện nay, việc thực hiện chính sách, pháp luật trong quản lý di sản văn hóa của tỉnh Quảng Ninh vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc, cụ thể như:

Hệ thống pháp luật vẫn còn thiếu đồng bộ, chưa xử lý được đầy đủ những phát sinh, vướng mắc trong thực tiễn quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa: (1) Chưa có quy định cụ thể thẩm quyền giao mặt nước, khu vực biển đối với di tích quốc gia đặc biệt, di sản thế giới mà có phần diện tích khoanh vùng thuộc mặt nước, biển; về cơ chế, chính sách cho bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa; (2) hiện nay, mới chỉ có chế độ, chính sách hỗ trợ kinh phí cho bảo tồn, phát huy giá trị di sản Chương trình mục tiêu quốc gia đến năm 2025, chưa có chế độ, chính sách hỗ trợ kinh phí cho việc bảo tồn, phát huy giá trị khác từ trung ương nên không có cơ sở để xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ kinh phí cho việc bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh (ngoài các di sản trong chương trình mục tiêu quốc gia). (3) Chính phủ chưa ban hành văn bản, quy định phân cấp việc thực hiện quản lý nhà nước về di tích cho UBND các cấp. Quy định về việc quản lý, bảo vệ, tu bổ, phục hồi và phát huy giá trị di tích và quản lý thu chi tiền công đức, tài trợ cho di tích và hoạt động lễ hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. (4) công tác kiểm kê di sản văn hóa mới chỉ quy định tại Luật Di sản văn hóa với khái niệm là: hoạt động động nhận diện, xác định giá trị và lập danh mục di sản văn hóa. Chưa quy định cụ thể về nội dung, thành phần hồ sơ kiểm kê, công tác thẩm định hồ sơ, quy trình, thủ tục trình phê duyệt; (5) quy hoạch di tích, công tác quản lý quy hoạch di tích trong tỉnh chưa có sự thống nhất, có di tích được giao cho đơn vị cấp tỉnh thực hiện, có di tích lại giao cho UBND cấp huyện thực hiện, có di tích lại giao cho các đơn vị khác như Tập đoàn TKV; (6) việc xác định thẩm quyền quyết định dự án đầu tư công thuộc lĩnh vực di sản văn hóa (đối với các di tích cấp tỉnh) chưa có sự thống nhất. (7) nguồn nhân lực cho công tác quản lý di sản tại địa phương cấp cơ sở còn mỏng, kiêm nhiệm nhiều việc. Chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể cho việc phân công quản lý đối với các cụm, khu di tích nằm trên địa bàn từ 02 tỉnh, 02 huyện, 02 xã trở lên; (8) tình trạng bất cập là cơ quan quản lý nhà nước không kiểm soát được hồ sơ tu bổ, phục hồi di tích được chủ đầu tư phê duyệt có bảo đảm nội dung, trình tự thực hiện theo quy định hay không. (9) đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng với vai trò, vị trí của văn hóa trong phát triển. Về tổng thể, mức đầu tư cho văn hóa trong tổng chi ngân sách tương đối thấp so với các lĩnh vực khác, chưa tương xứng với thực tiễn, chưa đồng đều....

Trên cơ sở giám sát thực tiễn, Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ninh nhận thấy để quản lý di sản văn hoá được thực hiện tốt hơn, cần tiếp tục quan tâm bổ sung, hoàn thiện các cơ chế chính sách, quy định pháp luật tạo hành lang pháp lý làm sơ sở cho công tác quản lý di sản văn hoá (quản lý về mặt: phân cấp phân quyền quản lý, quy hoạch di tích, phát triển công nghiệp văn hóa…), cụ thể như sau:

(1) Đối với Quốc hội:

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về di sản văn hóa theo hướng động bộ với các pháp luật liên quan như các luật quy định về di sản văn hóa đồng bộ với luật đầu tư (bổ sung lĩnh vực văn hóa vào nhóm ngành nghề ưu đãi đầu tư); Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (theo hướng bổ sung các khoản chi tài trợ cho văn hóa, thể thao được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế); Luật quản lý sử dụng tài sản công và các luật liên quan tác động trực tiếp tới công tác quản lý di sản văn hóa. Bổ sung nội dung về quy hoạch và xây dựng bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị di tích vào luật xây dựng luật quy hoạch đô thị hiện hành. Thống nhất giữa Luật đầu tư công và Luật di sản văn hóa về nội dung yêu cầu trong việc lập quy hoạch chi tiết quy hoạch mặt bằng tổng thể khi thực hiện các dự án tu bổ, tôn tạo di tích từ nguồn đầu tư công. Xem xét điều chỉnh Luật Đất đai (để hình thành và phát triển khu công nghiệp văn hóa ứng dụng công nghệ cao), Luật Điện ảnh (Phim sử dụng ngân sách nhà nước được phổ biến rộng rãi, bố trí kinh phí quảng bá)...

Sửa đổi nội dung tại điểm của khoản 1, Điều 3 Luật số 03/2022/QH15 về thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư theo hướng giao cho UBND cấp tỉnh quyết định chủ trương đầu tư đối với các dự án thuộc phạm vi khu vực bảo vệ II của di tích được cấp có thẩm quyền công nhận là di tích quốc gia đặc biệt thuộc Danh mục di sản thế giới khi có ý kiến thẩm định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Cần có quy định cụ thể về mức đầu tư tối thiểu cho văn hóa từ ngân sách nhà nước (ví dụ, khoảng 1,8% đến 2%) bằng các Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Thể chế hóa Nghị quyết trên bằng các quyết định của Thủ tướng Chính phủ trong phân bổ ngân sách nhà nước cho từng giai đoạn để các bộ, cơ quan trung ương và địa phương thực hiện.

(2) Đối với Chính phủ

Sửa khoản 2, Điều 18, Nghị định số 166/2018/NĐ-CP, ngày 25-12-2018, của Chính Phủ quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh để phù hợp với điểm b, khoản 4, Điều 35, Luật Đầu tư công 2019 quy định thẩm quyền quyết định đầu tư chương trình, dự án: “4. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã quyết định đầu tư chương trình, dự án sau đây: a) Chương trình đầu tư công đã được Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định chủ trương đầu tư; b) Dự án nhóm B, nhóm C do cấp mình quản lý, trừ dự án quy định tại điểm c khoản 1 Điều này”.

Sửa đổi khoản 1, Điều 5, Nghị định số 166/2018/NĐ-CP, ngày 25-12-2018, của Chính phủ quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, như sau: “Quy hoạch di tích được lập cho một di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, di tích Quốc gia đặc biệt và di tích Quốc gia; di tích cấp tỉnh”.

Sửa đổi Nghị định số 69/2008/NĐ-CP, ngày 30-5-2008, của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường; Nghị định số 59/2014/NĐ-CP, ngày 16-6-2014, của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30-5-2008 tạo môi trường pháp lý để các doanh nghiệp bảo trợ, tài trợ cho thiết chế văn hóa thể thao.

Bổ sung Nghị định liên quan bảo đảm thống nhất, rõ ràng, đặc biệt về lĩnh vực quy hoạch di tích cần làm rõ với di tích thì cần có các lớp quy hoạch xây dựng nào để quản lý hay không cần quy hoạch xây dựng mà chỉ cần có “quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích” hoặc “dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích” hoặc “báo cáo kinh tế - kỹ thuật bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích” để quản lý. Có quy định cụ thể trình tự, thủ tục đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội nằm trong khoanh vùng bảo vệ di tích các cấp và di sản thiên nhiên thế giới.

Để phát triển công nghiệp văn hóa: Đề nghị Thủ tướng Chính phủ (1) Xem xét, phê duyệt và ban hành Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; (2) Chỉ đạo tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ: Ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong sáng tạo, sản xuất, phổ biến, lưu giữ các sản phẩm văn hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ văn hóa; thực hiện đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các ngành công nghiệp văn hóa gắn với ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại.

Bổ sung Nghị định liên quan bảo đảm thống nhất rõ ràng đặc biệt về lĩnh vực quy hoạch di tích cần làm rõ với di tích thì cần có các lớp quy hoạch xây dựng nào để quản lý (quy hoạch chung, quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết hay không cần quy hoạch xây dựng mà chỉ cần có quy hoạch bảo quản tu bổ phục hồi di tích hoặc dự án bảo quản tu bổ phục hồi di tích hoặc báo cáo kinh tế kỹ thuật bảo quản tu bổ phục hồi di tích để quản lý.

(3) Đối với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Xây dựng quy định mức hỗ trợ kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước cho các nội dung, nhiệm vụ, công việc cụ thể bảo tồn, phát huy giá trị di sản để làm căn cứ cho các địa phương xây dựng các chế độ, chính sách cho việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa. Xây dựng dự thảo sửa đổi Nghị định số 166/2018/NĐ-CP, ngày 25-12-2018, của Chính phủ quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh trình Chính phủ phê duyệt theo quy định. Phối hợp ban hành Thông tư quy định cụ thể về việc thành lập BQL di tích; Quy chế tổ chức, hoạt động của các BQL di tích, trong đó quy định cụ thể những nội dung, hoạt động cho từng loại di tích, loại hình di tích để phù hợp với các quy định về việc quản lý di tích và Thông tư số 04/2023/TT-BTC, ngày 19-1-2023, của Bộ Tài chính.

Ban hành Bộ định mức ngành văn hóa để có định mức triển khai về văn hóa theo đúng quy định của pháp luật về tài chính. (1). Hội đồng thẩm định “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú”; (2). Hỗ trợ “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú”; (3). Bảo tồn di sản văn hóa, lễ hội, bảo tàng, sưu tầm và biên soạn sách liên quan đến di sản văn hóa. Đề nghị phối hợp với Bộ Thương binh và Xã hội xây dựng chính sách hỗ trợ nghệ nhân phù hợp với điều kiện tình hình kinh tế xã hội hiện nay.

Ban hành quy định tổ chức Hội đồng thẩm định, nghiệm thu chính thức các hồ sơ khoa học để xếp hạng di tích, hồ sơ di tích kiểm kê; hội đồng quyết định đưa di tích ra khỏi Danh mục di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh tỉnh Quảng Ninh; quy định mức chi cho các hội đồng này; cơ chế, chính sách xã hội hóa phù hợp hơn để tăng cường huy động các nguồn lực cho văn hóa như nghiên cứu phương án đầu tư PPP cho lĩnh vực văn hóa.

(4) Đề nghị Hội đồng Nhân dân tỉnh

Điều chỉnh phân cấp nhiệm vụ chi để linh hoạt trong vấn đề đầu tư bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, khảo cổ, để các di tích cách mạng, kháng chiến, khảo cổ xếp hạng cấp tỉnh vẫn có thể nhận được đầu tư từ ngân sách cấp tỉnh khi cấp huyện gặp khó khăn không bố trí được nguồn kinh phí; di tích cấp quốc gia có thể nhận được đầu tư từ cấp huyện.

Ban hành cơ chế, chính sách phát triển lực lượng sáng tác; thu hút tài năng văn hóa, nghệ thuật và chưa phù hợp với thực tế của cơ chế thị trường; huy động nguồn lực xã hội cho sự phát triển các ngành công nghiệp văn hóa; thu hút các nhà đầu tư, đoàn làm phim,…     

(5) Đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh

Quan tâm đầu tư kinh phí cho công tác bảo quản, tu bổ, phục hồi và phát huy giá trị các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, khảo cổ trên địa bàn tỉnh (bao gồm cả di tích cấp tỉnh). Tăng cường biên chế công chức, viên chức quản lý di sản cho phòng Quản lý di sản - Sở Văn hóa và Thể thao, phòng Văn hóa và Thông tin cấp huyện, cán bộ quản lý di tích cấp xã. Quan tâm đầu tư kinh phí cho công tác bảo quản, tu bổ, phục hồi và phát huy giá trị các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, khảo cổ trên địa bàn tỉnh. Quy hoạch không gian, bố trí quỹ đất, hỗ trợ các không gian sáng tạo, Khu/trung tâm công nghiệp văn hóa. Bố trí nguồn ngân sách, nguồn lực để ưu tiên phát triển sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa thế mạnh của tỉnh.

Di sản văn hóa là nguồn lực để phát triển bền vững của các quốc gia, một dân tộc. Công tác bảo tồn một di sản không giống như xây một ngôi nhà, làm một con đường, mà bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị di sản là một công việc phức tạp, đòi hỏi đa ngành, đa lĩnh vực và chuyên môn sâu và chịu sự chi phối của rất nhiều các quy định liên quan của pháp luật; công việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa cũng không phải là của riêng ngành văn hóa mà của cả cộng đồng dân cư có di sản, muốn sản phẩm tốt thì cộng đồng và các cấp chính quyền phải bảo tồn tốt, bảo tồn những cái thật sự là văn hóa truyền thống của người dân, mang đậm bản sắc vùng miền, tộc người. Thời gian tới, với sự góp sức của các cấp, các ngành và của nhân dân, nguồn lực di sản sẽ được nghiên cứu, khai thác và sử dụng hiệu quả hơn nữa, đóng góp vào sự phát triển du lịch xanh, bền vững của Quảng Ninh nói riêng và của đất nước nói chung./.