Góp phần bàn về việc có nên thay đổi tên nước

Vũ Hồng Thanh Thạc sĩ, Thượng tá, Thanh tra Bộ Công an
20:54, ngày 27-05-2013
TCCSĐT - Qua các ý kiến góp ý, kiến nghị, phản ánh về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, những ý kiến liên quan đến việc nên đổi hay giữ nguyên tên nước như hiện nay, có thể thấy đây là một vấn đề được đông đảo người dân quan tâm. Bài viết dưới đây nêu những lập luận để khẳng định việc sửa đổi tên nước là không cần thiết và đề xuất một số kiến nghị về vấn đề này.

Trong số các ý kiến khác nhau về việc sửa đổi tên nước, có nhiều đề nghị quay lại tên nước “Việt Nam dân chủ cộng hòa”, bởi cho rằng, đây là cái tên gắn với chính thể cộng hòa đầu tiên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố với quốc dân đồng bào qua Bản Tuyên ngôn độc lập từ năm 1945, với các lập luận: tên gọi này phản ảnh đúng trình độ phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với tính chất của định hướng xã hội chủ nghĩa; hay tên gọi “Việt Nam dân chủ cộng hòa” sẽ có khả năng lôi cuốn, tập hợp đoàn kết dân tộc, thuận lợi cho giao dịch quốc tế, thậm chí “sẽ tạo thế đi lên”,…

Tên nước là thiêng liêng đối với mỗi người dân, việc sửa đổi tên nước là rất quan trọng, cần hết sức thận trọng, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định. Theo chúng tôi, tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như hiện nay là hoàn toàn phù hợp vì các lý do sau:

Một là, nhìn lại lịch sử Việt Nam và lịch sử của các nước trên thế giới, có thể thấy tên của một quốc gia có tính ổn định rất cao, luôn gắn với một chế độ chính trị nhất định. Tên nước không thể bị thay đổi một cách tùy tiện, mà chỉ thay đổi hoặc mất đi khi thay đổi triều đại, khi đất nước bị giặc ngoại xâm thôn tính hoặc phát sinh các biến cố đặc biệt. 

Ở nước Nga sau khi Cách mạng Tháng Mười thành công, năm 1922, những người cộng sản Nga, đứng đầu là lãnh tụ V. I. Lê-nin đã liên kết bốn quốc gia thành Liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết (Liên Xô). Và, cái tên này tồn tại đến năm 1991 trước khi Liên Xô tan vỡ, dẫn đến thành lập 15 nước cộng hòa, trong đó có Liên bang Nga. Ở Trung Quốc, năm 1911, Cách mạng Tân Hợi đã lật đổ chế độ phong kiến của triều đình nhà Thanh, đến năm 1912 đổi tên nước là Trung hoa Dân quốc do Tôn Dật Tiên làm Tổng thống. Đến năm 1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc giành được chính quyền, đổi tên nước thành nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. 

Ở nước ta, ngày 02-9-1945, sau Cách mạng Tháng Tám thành công, giành được độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt quốc dân đồng bào đọc Bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được khẳng định trong Hiến pháp năm 1946 và năm 1959. Tuy nhiên, trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trên toàn lãnh thổ Việt Nam, ngoài tên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tồn tại tới 3 tên nước khác: Quốc gia Việt Nam (1949 - 1955) do chính quyền Bảo Đại thành lập ở vùng tạm chiếm; Việt Nam Cộng hòa (1955 - 1975) của chính quyền Ngô Đình Diệm và bè lũ tay sai, được quy định trong hiến pháp của chính quyền tương ứng vào các năm 1956 và 1967; vùng giải phóng ở miền Nam thuộc quyền quản lý của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, sau gọi là Cộng hòa miền Nam Việt Nam (1960 - 1975). Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước được thống nhất (năm 1975), chế độ ngụy quyền Sài Gòn bị lật đổ, nhưng chính quyền nhà nước ở hai miền Nam - Bắc tồn tại dưới hình thức tổ chức khác nhau. Năm 1976, cuộc tổng tuyển cử được tiến hành trên phạm vi cả nước, trong bối cảnh hân hoan, đoàn tụ “Bắc Nam sum họp một nhà”, Quốc hội khóa VI của nước Việt Nam thống nhất đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và xây dựng Hiến pháp năm 1980.

Việc đổi tên nước này đã được thực hiện đúng quy định của Điều 112 Hiến pháp năm 1959 hiện hành, thể theo nguyện vọng của quần chúng nhân dân và phù hợp với hoàn cảnh lịch sử lúc đó, chúng ta đã hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ mở ra kỷ nguyên độc lập, thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. 

Tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam một lần nữa đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992. Hiện nay, chúng ta tiến hành sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để Hiến pháp thực sự là đạo luật gốc, đạo luật cơ bản của nhà nước phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, vì thế, không có lý do gì để phải thay đổi tên nước. 

Hai là, mỗi quốc gia trên thế giới đều có một chế độ chính trị nhất định, trong đó chế độ chính trị được hiểu là nội dung phương thức tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị quốc gia mà trung tâm là nhà nước. Chế độ chính trị được cấu thành bởi sự kết hợp các yếu tố: chính trị, kinh tế - xã hội, tư tưởng văn hóa, pháp luật. Chế độ chính trị được thể hiện rõ nét nhất trong mô hình tổ chức nhà nước.

Việc đặt tên nước thường có liên quan đến việc phân loại nhà nước. Căn cứ vào hình thức có thể chia thành nhà nước quân chủ và nhà nước cộng hòa; căn cứ vào chế độ chính trị có thể chia thành chế độ dân chủ và phản dân chủ (độc tài, phát xít, chuyên chế); căn cứ vào kiểu nhà nước, có thể chia thành nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến, nhà nước tư bản chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), dựa trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, từ khi giành được độc lập (năm 1945), chúng ta đã thực hiện đường lối “tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước”(1), xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong đó, “xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(2). Như vậy, tên nước ta là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với bản chất tốt đẹp của nhà nước mà chúng ta đang xây dựng. 

Ba là, gần 40 năm qua, tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quen thuộc với các nước trên thế giới. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, chúng ta đã phá được thế bị bao vây cấm vận, tiến hành bình thường hóa quan hệ ngoại giao với nhiều nước lớn. Đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 180 trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; có quan hệ thương mại với gần 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Chúng ta đã có 98 cơ quan đại diện tại các quốc gia và vùng lãnh thổ ở khắp 5 châu lục trên thế giới. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử ngoại giao dân tộc, Việt Nam đảm nhiệm thành công cương vị Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009, Chủ tịch ASEAN năm 2010, Tổng Thư ký ASEAN từ tháng 01-2013. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính lũy kế đến ngày 15-12-2012, đã có 98 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 14.489 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đầu tư đăng ký là 213,6 tỷ USD. Ngoài việc thu hút đầu tư, Việt Nam còn tích cực, chủ động đầu tư ra nước ngoài, tính đến ngày 20-3-2013, đã có 742 dự án của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang 59 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 15,5 tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tăng nhanh (tăng hơn 10 lần trong vòng 20 năm), tại thời điểm năm 1992 chỉ mới ở mức 140 USD, đến năm 2012, con số này đạt gần 1.600 USD. Trước năm 1986, từ một nước phải nhập khẩu gạo, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được bảo đảm; an ninh, chính trị được giữ vững. Thế và lực của đất nước ngày càng vững mạnh, vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Với những bước phát triển nhanh chóng và các thành tựu đã đạt được như trên có thể khẳng định tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không hề có rào cản trong phát triển quan hệ với các nước trên thế giới. 

Bốn là, nếu chấp nhận phương án sửa tên nước sẽ gây tốn kém, phức tạp trong quá trình thay đổi tên gọi, như phải làm các thủ tục công bố cho thế giới biết việc thay đổi tên nước theo thông lệ quốc tế; thay đổi quốc huy, thay đổi con dấu của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội; thay đổi các biểu mẫu, giấy tờ,… 

Việc thay đổi tên nước còn kéo theo sự suy giảm niềm tin, hoang mang, phân tâm trong nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Sự hoang mang, dao động đó rất dễ bị kẻ địch lợi dụng, xuyên tạc, kích động, lôi kéo, chia rẽ, từ đó dẫn tới tư tưởng đòi hỏi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, thay đổi chế độ. Đây là những biểu hiện của diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, thúc đẩy việc “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thiêng liêng, là niềm tự hào dân tộc, là kết quả của cả quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc lâu dài đầy hy sinh, gian khổ của cha ông ta; khẳng định vị thế của Việt Nam với bạn bè trên thế giới. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử và cũng là đích mà xã hội Việt Nam đang hướng đến, tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như hiện nay là phù hợp./.

-------------------------------------------

(1) Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 20-12-1976, tr. 978 - Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, Nxb. Chính trị quốc gia, 2004

(2) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), tr. 13-14, Nxb. Chính trị quốc gia, 2011