Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
TCCS - Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung những nhận thức mới quan trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đặc biệt, đã nhấn mạnh tới việc gắn xây dựng, chỉnh đốn Đảng với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đây cũng là nhiệm vụ, phương hướng trọng tâm của cả nhiệm kỳ Đại hội XIII và những năm tiếp theo: “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”(1). Tuy nhiên, thực tế cũng đang đặt ra những yêu cầu cần nhận thức rõ ràng và sâu sắc hơn, tạo tiền đề vận dụng đúng đắn, hiệu quả và đưa công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đi vào chiều sâu.
Quan điểm của Đảng về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
Trong thời kỳ tiến hành công cuộc đổi mới, nhiệm vụ xây dựng Đảng đã được đề cập một cách thường xuyên và toàn diện; qua các đại hội gần đây, Đảng ta đều có những điểm nhấn quan trọng. Đại hội X (năm 2006) tập trung vào “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”, Đại hội XI (năm 2011) lấy “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” làm một trong những thành tố quan trọng của chủ đề Đại hội, Đại hội XII (năm 2016) nhấn mạnh: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” ngay trong tiêu đề của Báo cáo chính trị.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, liên quan đến sự tồn vong của Đảng và sự sống còn của chế độ. Đại hội đã nêu bật những kết quả quan trọng trong công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhất là đã triển khai và thực hiện nghiêm túc, mang lại kết quả bước đầu Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng và Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, bổ sung thêm nội dung về đạo đức trong công tác xây dựng Đảng. Đó là cơ sở để “Đảng ta giữ vững được bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới. Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(2).
Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà Đại hội XII đề ra dựa trên những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ và cả 30 năm đổi mới. Chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm, Đảng ta chủ trương phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Cùng với việc nhấn mạnh mục tiêu, yêu cầu xây dựng Đảng “trong sạch, vững mạnh”, được coi là thành tố đầu tiên của chủ đề Đại hội, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định nhiệm vụ trọng tâm đầu tiên trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của cả nhiệm kỳ là “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng”. Hơn thế, trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của cả nhiệm kỳ Đại hội XII, thì 2 nhiệm vụ đầu tiên là về công tác xây dựng Đảng, đó là: 1- Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; 2- Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Giữa xây dựng và chỉnh đốn Đảng có mối liên hệ chặt chẽ, cần được tiến hành đồng thời và có tác động qua lại, bổ sung và bổ khuyết cho nhau. Lịch sử Đảng ta cho thấy, xây dựng Đảng bao giờ cũng phải được xem là công việc cơ bản, thường xuyên; chỉnh đốn Đảng được đặt ra cấp bách khi xuất hiện tình hình đặc biệt cần có giải pháp để giúp Đảng xốc lại đội ngũ, vượt qua những khó khăn, thử thách. Chính vì vậy, Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng tại Đại hội XIII đã chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ, đồng bộ, toàn diện, hiệu quả giữa xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trong đó xây dựng Đảng là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, cấp bách; đồng thời, xác định đúng trọng tâm, trọng điểm, khâu đột phá”(3).
Tiếp tục truyền thống và kế thừa tinh thần của các đại hội trước đó, Đại hội XIII của Đảng đặc biệt coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng được thể hiện rõ cả trong chủ đề, bài học kinh nghiệm, quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển.
Chủ đề Đại hội XIII đã phát triển thành tố “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” của Đại hội XII thành “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”. Điểm mới ở đây là đã bổ sung “xây dựng hệ thống chính trị” cùng với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và không chỉ đề cập đến xây dựng Đảng, mà còn nhấn mạnh cả đến chỉnh đốn Đảng.
Không phải ngẫu nhiên mà Đại hội XIII của Đảng lại xác định, đặt ra yêu cầu đầu tiên là cần tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trên thực tế, xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau; trong đó, xây dựng, chỉnh đốn Đảng có vai trò hạt nhân, quan trọng vì Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đặc biệt là Đảng lãnh đạo, giới thiệu những đảng viên ưu tú của mình ứng cử vào các vị trí chủ chốt của Nhà nước và cả hệ thống chính trị.
Xây dựng Đảng phải gắn liền với xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; bởi lẽ, chỉ khi nào Nhà nước mạnh, liêm chính, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phát huy mạnh mẽ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình thì mới đưa được những đường lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống. Nói cách khác, Đảng muốn vững mạnh và thể hiện được vai trò lãnh đạo toàn diện của mình thì Nhà nước cũng phải được xây dựng vững mạnh, liêm chính, vì Nhà nước chính là người thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, đưa các quyết sách lãnh đạo của Đảng thành chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch cụ thể, sát hợp với thực tiễn phát triển đất nước. Cũng như vậy, Đảng và Nhà nước chỉ vững mạnh, hoàn thành được nhiệm vụ của mình khi và chỉ khi có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phát huy hết vai trò, trách nhiệm, cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thành hành động thực tế của nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân và bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh còn giúp cho Đảng có được mối quan hệ mật thiết với nhân dân, khơi dậy tiềm năng sáng tạo, khát vọng phát triển vì một Việt Nam hùng cường, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khuyến khích, động viên nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước; đáp ứng ngày càng tốt hơn sự kỳ vọng, xứng đáng với sự gửi gắm niềm tin của nhân dân.
Như vậy, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là yêu cầu quan trọng, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng, góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính đồng bộ, sự phù hợp giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, đưa nước ta phát triển nhanh, bền vững. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, do vậy, là nhân tố quyết định tạo nên những thắng lợi, thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới ở Việt Nam trong suốt 35 năm qua.
Nhìn chung, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong nhiệm kỳ Đại hội XII đã đạt được kết quả nổi bật là: Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; sắp xếp tổ chức bộ máy, sáp nhập đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và tinh giản biên chế của hệ thống chính trị; đổi mới công tác cán bộ và ngăn chặn tình trạng chạy chức, chạy quyền; tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, xử lý nghiêm những tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên vi phạm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Kết quả của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng các nhiệm kỳ vừa qua và nhiệm kỳ Đại hội XII đã góp phần rất quan trọng để đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Đảng ta đoàn kết, thống nhất và trong sạch, vững mạnh hơn; niềm tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố, tăng cường hơn, tạo nền tảng vững chắc đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới(4).
Một số hạn chế, yếu kém cần được tập trung xử lý
Một là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị nói chung vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị: Việc tổ chức thực hiện một số nghị quyết của Đảng vẫn là khâu yếu. Công tác tư tưởng còn có mặt hạn chế, thiếu kịp thời, tính thuyết phục chưa cao. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, thiếu gương mẫu. Tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi còn hình thức. Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là của người đứng đầu chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng. Việc hoàn thiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị cho phù hợp với tình hình thực tiễn còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu.
Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả hoạt động ở một số nơi thực hiện thiếu quyết liệt, chưa đạt mục tiêu đề ra; cá biệt có nơi còn nóng vội, chưa có bước đi vững chắc. Tinh giản biên chế mới tập trung giảm số lượng, chưa thực sự gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Xây dựng vị trí việc làm còn nhiều lúng túng, tiến độ triển khai còn chậm so với mục tiêu đề ra. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn thấp, chưa được củng cố kịp thời. Chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc; chưa có cơ chế bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.
Hai là, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói riêng và hệ thống chính trị nói chung còn nhiều bất cập, chậm được đổi mới.
Phương thức lãnh đạo của Đảng là tổng thể các hình thức, phương pháp, cách thức, quy chế, quy định, quy trình, phong cách, lề lối… mà Đảng sử dụng để tác động vào đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện thắng lợi cương lĩnh chính trị, đường lối, các nghị quyết của Đảng, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã thẳng thắn nhìn nhận: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước chưa đầy đủ, kịp thởi. Việc ban hành nghị quyết của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi; việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nghị quyết chưa nghiêm, hiệu quả thấp, chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng còn xảy ra ở một số nơi”(5).
Có thể thấy, việc phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền trách nhiệm giữa các cơ quan, tổ chức đảng và các cơ quan nhà nước chưa thực sự rõ ràng. Chưa có sự phân định thật rõ quyền hạn, trách nhiệm giữa Bộ Chính trị, Ban Bí thư với Đảng đoàn Quốc hội và Ban Cán sự Đảng Chính phủ, cũng như giữa ban thường vụ, thường trực cấp ủy với ban cán sự đảng ủy ban nhân dân, đảng đoàn hội đồng nhân dân ở địa phương. Các quy chế phối hợp đã có, nhưng vẫn còn tình trạng chung chung, khó triển khai trong thực tiễn. Cùng với đó, việc phân định thẩm quyền, trách nhiệm giữa tập thể lãnh đạo, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng với người đứng đầu cơ quan nhà nước còn chưa thật rạch ròi và còn thiếu thống nhất, gây nên những chồng chéo, lúng túng nhất định trong chỉ đạo, điều hành ở các địa phương, cơ quan, đơn vị.
Ba là, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vẫn chưa thực sự được đẩy lùi, còn có những hiểu hiện, diễn biến phức tạp
Đảng ta là đảng cầm quyền, đội ngũ đảng viên nắm giữ hầu hết các vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước, có quyền lực rất lớn và đi liền với đó là nguy cơ tha hóa quyền lực, quan liêu, tham nhũng, biến chất, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm” cũng rất cao. Trên thực tế, những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả ở cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cao còn nhiều diễn biến tinh vi, phức tạp, khó lường.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay đã “làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng”, nếu không bị ngăn chặn, đẩy lùi, thì đây sẽ “là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”. Chính vì vậy, Nghị quyết Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng đã xác định đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng.
Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu của tình trạng suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả người đứng đầu, trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân, không đủ bản lĩnh để vượt qua những cám dỗ. Do vậy, muốn ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống thì phải bắt đầu từ việc cán bộ, đảng viên “tự soi, tự sửa”. “Tự soi, tự sửa” là việc mỗi người phải nghiêm túc tự kiểm điểm, tự nhìn lại mình; cái gì tốt thì phát huy, cái gì khiếm khuyết thì tự điều chỉnh, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa chữa.
Bốn là, chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng còn những hạn chế.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực, kết quả đã đạt được, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng hiện vẫn còn những hạn chế. Không ít địa phương, cơ quan, đơn vị tiến hành kiểm tra, giám sát còn chiếu lệ, hình thức, chưa quyết liệt, nên hiệu quả chưa cao, chưa đủ sức răn đe; đấu tranh với vi phạm vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, đùn đẩy, không nghiêm túc. Một số tổ chức đảng còn tỏ ra bị động trong phát hiện tiêu cực; công tác kiểm tra, giám sát chỉ được thực hiện khi có đơn tố cáo, thiếu kiểm tra chấp hành và giám sát thường xuyên, đã làm cho vai trò, uy tín của cấp ủy và tổ chức chính quyền bị giảm sút; nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao, vi phạm kỷ luật, nhưng chỉ được phát hiện bởi báo chí, truyền thông, chứ không phải do tổ chức đảng hay cơ quan kiểm tra, giám sát... Một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cấp ủy chưa coi trọng đúng mức công tác kiểm tra, giám sát; chưa kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo; việc xác định nội dung kiểm tra, giám sát còn dàn trải, chưa đi vào những lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, dễ nảy sinh tiêu cực.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là “thanh bảo kiếm” giữ nghiêm kỷ luật đảng. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng vẫn còn những hạn chế, yếu kém cần được nhận diện và nhanh chóng khắc phục.
Những nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị cần tập trung thực hiện trong thời gian tới theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
Trên cơ sở kế thừa và đánh giá kết quả việc thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng đề ra 10 nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ về công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị để thực hiện; trong đó, có nhiều nội dung được bổ sung, phát triển cho phù hợp với thực tiễn và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới.
Thứ nhất, đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Về hoàn thiện mô hình tổ chức của hệ thống chính trị, kế thừa Đại hội XII, Đại hội XIII bổ sung thêm một số nhiệm vụ, giải pháp mới; trong đó, đặc biệt nhấn mạnh tới việc cần tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức của hệ thống chính trị. Tổng kết các mô hình thí điểm về tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị, khắc phục sự chồng chéo và những bất hợp lý trong tổ chức của Đảng và tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Sơ kết, tổng kết, nhân rộng những mô hình thí điểm có hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và nghiên cứu triển khai thực hiện ở cấp tỉnh theo lộ trình phù hợp với quy hoạch tổng thể các đơn vị hành chính các cấp. Đồng thời, Đại hội XIII cũng nhấn mạnh: “Đẩy mạnh thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm”(6).
Theo đó, cần tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Hoàn thiện thể chế, bảo đảm đồng bộ, liên thông giữa pháp luật của Nhà nước với quy định của Đảng về tổ chức bộ máy. Đánh giá, hoàn thiện mô hình tổ chức đảng theo ngành, lĩnh vực và những nơi có đặc điểm riêng.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là đối với Nhà nước trong điều kiện mới.
Phương thức lãnh đạo của Đảng có vai trò quan trọng, đặc biệt là trong huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong thực hiện thắng lợi các nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là khâu quan trọng nhất, do vậy, cần tập trung đổi mới theo nguyên tắc: Đảng lãnh đạo Nhà nước, nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước. Nhà nước quản lý xã hội, nhưng không xa rời sự lãnh đạo của Đảng. Đổi mới trên cơ sở tổng kết thực tiễn công tác lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị; đồng thời, kết hợp chặt chẽ việc đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, tạo nên sự đồng bộ, sức mạnh tổng hợp trong hệ thống chính trị nhằm thực hiện có kết quả, đưa nghị quyết của Đảng nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Trên tinh thần đó, Đại hội XIII của Đảng đưa ra yêu cầu: “Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng nâng cao năng lực dự báo, tầm nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương; đổi mới việc xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng các nghị quyết của Đảng; khắc phục tình trạng ban hành nghị quyết chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi”(7).
Thứ ba, đẩy mạnh thực hành dân chủ trong Đảng, xây dựng văn hóa Đảng là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Để xây dựng Đảng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như mọi công việc khác, “thực hành dân chủ rộng rãi” là phương thuốc để phát huy quyền làm chủ và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong đấu tranh và loại trừ những kẻ thoái hóa, biến chất, quan liêu - những kẻ “miệng nói dân chủ nhưng làm việc theo lối quan chủ”. Muốn xứng đáng với vai trò tiền phong, Đảng phải chú trọng công tác xây dựng Đảng, thường xuyên tự đổi mới và chỉnh đốn; trong đó, mọi hoạt động đều phải tuân thủ Điều lệ Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ phải được thực thi và dân chủ phải được mở rộng.
Chỉ có thực hành dân chủ trong Đảng rộng rãi thì mới có thể tiến hành mở rộng dân chủ trong xã hội. Thấm nhuần, vận dụng tư tưởng của Người, Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”(8).
Đảng ta đặc biệt chú trọng xây dựng văn hóa Đảng, xem đây là nền tảng, là sức mạnh nội sinh bảo đảm cho việc thực hiện mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng văn hóa Đảng, Đảng ta đã nhiều lần đề cập, coi đây là nhân tố quan trọng, là hạt nhân để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Thứ tư, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp.
Đại hội XIII nhấn các mạnh nhiệm vụ: Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, sự gương mẫu, tinh thần vì nhân dân phục vụ của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt và người đứng đầu các cấp. Coi trọng đánh giá chất lượng, hiệu quả thực tế theo chức trách, nhiệm vụ được giao và đề cao trách nhiệm người đứng đầu. Chú trọng cơ cấu hợp lý, sớm phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số, nhất là ở cơ sở. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài; Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Thứ năm, kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra, kiểm toán nhà nước, giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Cần kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Nâng cao chất lượng cán bộ ủy ban kiểm tra các cấp, để họ xứng đáng là đội ngũ tiên phong trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tăng cường phối hợp giữa giám sát, kiểm tra của Đảng với thanh tra, kiểm toán của Nhà nước và giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội để tăng cường sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát, kiểm tra, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực, không hiệu quả. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Thứ sáu, thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị.
Nhận thức sâu sắc về vai trò, vị thế đặc biệt quan trọng của nhân dân nói chung và trong công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị nói riêng, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định và đề ra nhiệm vụ cần tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, cả hệ thống chính trị về công tác dân vận; phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới.
Đảng xác định cần đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và trách nhiệm của công dân; đồng thời, chống các biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức, mị dân. Thực hiện nghiêm, có hiệu quả các quy định, quy chế về phát huy dân chủ ở cơ sở; thực hiện tốt công tác tiếp dân, đối thoại với nhân dân, giải quyết những kiến nghị chính đáng, hợp pháp của nhân dân; xử lý kịp thời, dứt điểm các vấn đề bức xúc liên quan đến đời sống nhân dân, các vụ khiếu kiện đông người, vượt cấp, kéo dài, không để hình thành các “điểm nóng” về an ninh chính trị, trật tự xã hội.
Để đáp ứng được sự gửi gắm niềm tin của nhân dân, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự khắc phục sai lầm, hạn chế, khuyết điểm, phải thật sự là đảng chân chính, cách mạng, “là đạo đức, là văn minh”, mạnh dạn thực hiện tự phê bình và phê bình, thành tâm học hỏi quần chúng nhân dân, dựa vào nhân dân để cùng xây dựng, chỉnh đốn, bảo vệ, phát triển Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh, đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững, sớm đạt được mục tiêu trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI./.
---------------
(1), (6), (8): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 40, 185, 38
(2): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 191
(3), (4), (5), (7): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 227, 220 - 221, 217, 253
Bài học về xây dựng, chỉnh đốn Đảng qua 35 năm đổi mới  (25/04/2021)
Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới  (31/03/2021)
Bộ Chính trị gặp mặt thân mật các đồng chí nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và nguyên Ủy viên Trung ương Đảng khóa XII  (27/02/2021)
Đảng bộ thị xã Hoài Nhơn xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị giai đoạn 2020 - 2025  (21/02/2021)
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chúc Tết Đảng bộ, chính quyền, quân và dân Thủ đô Hà Nội  (12/02/2021)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thành công tốt đẹp  (01/02/2021)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển