TCCSĐT - Cụm từ “tín dụng đen” thời gian qua xuất hiện thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng, phản ánh một thực trạng đang rất nhức nhối, phức tạp, nhất là ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Không chỉ đẩy các hộ gia đình vốn đã nghèo, rơi vào cảnh mất nhà cửa, đất đai, phương tiện sản xuất, “tín dụng đen” còn gây mất an ninh trật tự nghiêm trọng ở nhiều miền quê. Đấu tranh nhằm đẩy lùi “tín dụng đen” là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó, vai trò quan trọng của Ngân hàng Chính sách xã hội, tín dụng chính sách xã hội.

“Tín dụng đen” gây nhức nhối xã hội

Thời gian qua, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động “tín dụng đen” xảy ra tại nhiều địa phương với thủ đoạn rất tinh vi, phức tạp, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự. Các đối tượng lợi dụng mạng viễn thông, Internet, núp bóng các doanh nghiệp có chức năng cho vay tài chính, dịch vụ đòi nợ, kinh doanh cầm đồ, tạo vỏ bọc, đối phó với cơ quan chức năng để tổ chức các hoạt động cho vay không thế chấp, huy động vốn, kinh doanh tài chính, góp vốn, góp tài sản kinh doanh với lãi suất rất cao (từ 100% đến 300%, thậm chí lên đến 700%/năm đối với khoản tiền ở thời điểm vay) nhằm thu lợi bất chính.

Trong nền kinh tế thị trường, cùng với sự phát triển kinh tế, nhu cầu vay vốn ngày càng gia tăng của người dân, doanh nghiệp đã thúc đẩy quy mô tín dụng ngày càng lớn. Bên cạnh tín dụng cho sản xuất kinh - doanh, tín dụng tiêu dùng cũng phát triển rất nhanh. Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tính đến cuối năm 2012, tổng dư nợ cho vay tiêu dùng khoảng 230.000 tỷ đồng, chiếm 8% tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế, đến cuối năm 2018, dư nợ tín dụng tiêu dùng đã đạt khoảng 1,4 triệu tỷ đồng (gấp 6 lần năm 2012), chiếm khoảng 19,4% tổng dư nợ của nền kinh tế (theo Ngân hàng Nhà nước).

Để đáp ứng nhu cầu vay vốn, bên cạnh tín dụng chính thức có sự quản lý của Nhà nước còn có tín dụng phi chính thức, không có sự quản lý của Nhà nước, còn gọi là “tín dụng đen”. “Tín dụng đen” là cách gọi hành vi cho vay nặng lãi, cho vay với lãi xuất bất hợp pháp. Cách gọi này chưa thực sự thể hiện hết bản chất của loại hình vay mượn ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật nhưng do được sử dụng từ lâu nên đã trở nên phổ biến. Tín dụng đen có thể đến tay người vay rất dễ dàng, nhanh chóng, đáp ứng được nhu cầu vay vốn cấp bách của người dân, thậm chí là cả doanh nghiệp.

Thực trạng tín dụng đen hoành hành từ thành thị đến nông thôn, gây bất an xã hội trong thời gian gần đây. Người ta dễ dàng bắt gặp những mẩu quảng cáo rao vặt cho vay dán ở cột điện, bờ tường, tờ rơi phát ở các ngã ba, ngã tư cho đến các quảng cáo trên mạng internet. Điều đó cho thấy, nhu cầu tìm đến nguồn tín dụng này là rất lớn và cũng gây ra nhiều khó khăn với cơ quan quản lý.

Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, khoảng 70% dân số Việt Nam chưa tiếp cận vốn ngân hàng. Số doanh nghiệp có khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức cũng chỉ mới chiếm 1/3 tổng số doanh nghiệp. Trong khi người dân, doanh nghiệp khó tiếp cận vốn ngân hàng thì nguồn tín dụng phi chính thức lại luôn “rộng cửa” với thủ tục vay rất đơn giản, linh hoạt, không cần tài sản thế chấp, nguồn vốn dồi dào. Điều này lý giải vì sao tín dụng đen ngày càng bùng phát dù ngành Công an và Ngân hàng đã đẩy mạnh điều tra, truy quét, xử lý tội phạm cho vay nặng lãi, tín dụng đen.

Đặc điểm của tín dụng đen là sự cho vay do quen biết giữa các cá nhân, cư trú gần nhau; không tuân theo một chuẩn mực nào, trong đó vay nóng là chủ yếu; thủ tục cho vay đơn giản, có thể tiếp cận mọi lúc, mọi nơi, đáp ứng mọi nhu cầu; món vay thường có giá trị nhỏ, trong khi tài sản đảm bảo cực kỳ đa dạng, có thể là vật dụng, tài sản cá nhân đến nhà cửa, đất đai; có thể gia hạn nếu cần và quan trọng là cực kỳ rủi ro.

Theo ước tính của các chuyên gia kinh tế, tín dụng phi chính thức đang chiếm khoảng 20% tổng dư nợ tín dụng (khoảng 1,2 triệu tỷ đồng). Tín dụng đen ngày càng hoành hành và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau, gây nhiều hệ lụy cho xã hội và bức xúc cho người dân. Thống kê trong 4 năm từ 2015-2018, toàn quốc đã xảy ra 7.624 vụ phạm tội liên quan đến tín dụng đen, trong đó có 56 vụ giết người, 389 vụ cố ý gây thương tích, 629 vụ cướp tài sản, 836 vụ cưỡng đoạt tài sản, 1.809 vụ lừa đảo, 3.581 vụ lạm dụng tín nhiệm, 165 vụ hủy hoại tài sản,...

Tình trạng tín dụng đen bùng nổ bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó những nguyên nhân cơ bản là: Nhiều cá nhân, tổ chức gặp khó khăn về nguồn vốn mà không tiếp cận được nguồn vốn từ hệ thống tín dụng ngân hàng, do đó đến vay vốn tại các cơ sở tín dụng đen, các điểm cho vay nặng lãi. Một bộ phận người dân, nhất là giới trẻ, không chịu làm ăn, ham mê cá độ, cờ bạc, game online, đã vay nặng lãi để sử dụng vào mục đích ăn chơi không chính đáng của bản thân, khi cần thì lãi suất cao cũng chấp nhận vay. Người dân tìm đến nguồn tín dụng đen bất chấp lãi suất vay rất cao do không thể vay từ ngân hàng, công ty tài chính… với những quy định, thủ tục ngặt nghèo, thời gian kéo dài. Nhu cầu chi tiêu của người dân như đóng tiền trọ, chữa bệnh, đóng học phí cho con… là không thể trì hoãn, từ đó, họ tìm đến tín dụng đen, dù bản thân không chắc được khả năng trả nợ. Thực tế cho thấy, những người tìm đến tín dụng đen phần nhiều đều trong hoàn cảnh bế tắc, công việc bấp bênh, đa số không có bảo hiểm y tế. Quy định của pháp luật còn lỏng lẻo và chưa đủ sức răn đe nên tình trạng lừa đảo từ tín dụng đen ngày càng gia tăng. Các biện pháp kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước nhằm đẩy lùi tín dụng đen chưa phát huy hiệu quả. Thậm chí, tín dụng đen ngày càng nở rộ và biến tướng sang hình thức cho vay online với mức lãi suất lên tới vài trăm phần trăm mỗi năm. Đặc biệt, với sự hỗ trợ của công nghệ, người vay và người cho vay chỉ cần đăng nhập vào ứng dụng công nghệ là có thể tiến hành giao dịch vay mượn. Chế tài xử lý các đối tượng cho vay nặng lãi, đòi nợ thuê, chưa tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm, chưa đủ sức răn đe. Sự quan tâm vào cuộc của chính quyền cơ sở, một số cơ quan chức năng chưa đúng mức.

Hậu quả của tín dụng đen rất lớn đối với xã hội, gây bất an đối với người dân, phức tạp đối với nhà quản lý. Lãi suất vay của tín đụng đen thường cao ngất ngưởng, khả năng người vay không trả được nợ là rất lớn. Khi con nợ không thể trả nợ được, lập tức sẽ bị khủng bố tinh thần, bị hành hung, gây mất ổn định xã hội. Theo cơ quan điều tra của Bộ Công an, đối tượng đứng đằng sau hoạt động tín dụng đen phần lớn là dân giang hồ, sẵn sàng dùng biện pháp mạnh, phi pháp để đòi nợ, càng đẩy bất ổn xã hội lên cao hơn. Sự tồn tại của hình thức tín dụng đen cũng không đóng góp được cho ngân sách nhà nước.

Tăng cường tín dụng chính sách để ngăn chặn, đẩy lùi tín dụng đen

Nhu cầu về vốn cho sản xuất và tiêu dùng tồn tại khách quan và không ngừng tăng thêm. Vì vậy giải pháp cơ bản để khắc phục tình trạng tín dụng đen là tăng cường hệ thống tín dụng chính thức (tín dụng kinh doanh và tín dụng chính sách xã hội) cả về nguồn vốn vay, mạng lưới cơ sở cho vay và đơn giản hóa thủ tục hành chính. Ở đây vài trò đặc biệt thuộc Ngân hàng Chính sách xã hội.

 
Thực hiện chính sách an sinh xã hội, ngày 04-10-2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2002/NĐ-CP về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác; Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội để cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Vốn điều lệ ban đầu của Ngân hàng là 5 nghìn tỷ đồng và được cấp bổ sung phù hợp với yêu cầu hoạt động từng thời kỳ. Thời hạn hoạt động là 99 năm. Ngày 11-3-2003, Ngân hàng chính thức hoạt động.
Đến ngày 30-9-2017, tổng nguồn vốn của Ngân hàng là hơn 179.000 tỉ đồng, gấp hơn 25 lần so với khi thành lập. Tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách đạt hơn 169.000 tỷ đồng, gấp 24 lần so với khi thành lập. Hơn 6,7 triệu hộ nghèo và các đối tượng chính sách còn dư nợ. Hơn 31,8 triệu lượt hộ nghèo và đối tượng chính sách khác đã vay vốn từ Ngân hàng, nhờ đó hơn 4,5 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo. Vốn ủy thác của địa phương gần 8.500 tỉ đồng.
Đến năm 2019, tổng nguồn vốn tín dụng chính sách đạt 189 nghìn tỷ đồng, tăng 30 nghìn tỷ đồng (+19%) so với năm 2016 và tăng 182 nghìn tỷ đồng, gấp gần 27 lần so với khi thành lập; mức cho vay đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo từ 30 triệu đồng/lượt/hộ vay tăng lên 50 triệu đồng/lượt/hộ vay.

Tín dụng chính sách xã hội thời gian qua giúp gần 600 nghìn hộ vượt qua ngưỡng nghèo; tạo việc làm cho trên 332 nghìn lao động; giúp 75 nghìn lượt học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vay vốn học tập và xây dựng trên 2 triệu công trình nước sạch, vệ sinh ở nông thôn... Chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao, tỷ lệ nợ quá hạn qua các năm ổn định, đến tháng 7-2018 chiếm tỷ lệ 0,42%. Tín dụng chính sách đã góp phần tích cực trong việc thực hiện mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội.

Để khắc phục tình trạng tín dụng đen hoành hành, gây mất ổn định xã hội; khẳng định tín dụng chính sách xã hội là một trong những trụ cột quan trọng trong các chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước, góp phần đẩy lùi tín dụng đen, trong thời gian tới, Ngân hàng Chính sách Xã hội cần tiếp tục tập trung thực hiện tốt chỉ tiêu kế hoạch các chương trình tín dụng chính sách xã hội được Thủ tướng Chính phủ giao với mức tăng trưởng dư nợ tín dụng dự kiến trên 11%, tổng doanh số cho vay trong năm 2019 sẽ đạt trên 70 nghìn tỷ đồng.

Nguồn vốn cần tập trung vào các chương trình cho vay hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ dân tộc thiểu số, học sinh sinh viên, nhà ở hộ nghèo, nhà ở xã hội… nhằm phát huy hơn nữa hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội, góp phần đẩy lùi và ngăn chặn nạn tín dụng đen.

Tổ chức rà soát các chương trình tín dụng chính sách xã hội để tham mưu cấp có thẩm quyền xem xét điều chỉnh đối tượng cho vay, mức cho vay, lãi suất cho vay, thời hạn cho vay phù hợp với thực tiễn để người dân có đủ vốn thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả.

Tiếp tục đơn giản hóa thủ tục vay vốn, niêm yết công khai, minh bạch quy trình, thủ tục cho vay tại các điểm giao dịch xã. Đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động nghiệp vụ để tiếp tục nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, nhất là tại các điểm giao dịch xã.

Phối hợp với chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội tuyên truyền cho nhân dân về tác hại của tín dụng đen cũng như nắm bắt, phản ánh kịp thời thực trạng tín dụng đen trên địa bàn để cùng chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng có giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi tín dụng đen.

Mở rộng hệ thống, mạng lưới Ngân hàng Chính sách xã hội tới tận các huyện và giao dịch tại các điểm giao dịch xã để cung ứng tín dụng tới người dân nghèo, người thu nhập thấp ở vùng sâu, vùng xa…

Phát triển các tổ chức tài chính vi mô, quỹ tín dụng nhân dân, "chân rết" của ngân hàng chính sách xã hội, chi nhánh của công ty tài chính… và minh bạch hóa thị trường tài chính là những biện pháp cần sớm được thực hiện trong thời gian tới. Theo đó, tiếp tục triển khai các kế hoạch mở rộng mạng lưới điểm giới thiệu dịch vụ, bán hàng thông qua việc hợp tác với các đối tác cung ứng sản phẩm; hoàn tất thử nghiệm công nghệ cao trên các ứng dụng cho vay tự động nhằm tiếp cận nhanh chóng và mang đến các trải nghiệm vay linh hoạt cho các khách hàng tại khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa...

Tín dụng đen làm cho xã hội hết sức bất ổn, gây nên nhiều hệ lụy xấu cho những ai vướng phải, từ đó, kéo theo nhiều tệ nạn xã hội như: trộm cắp, cướp giật, ma túy… Để đẩy lùi vấn đề gây nhứt nhối này, cần phải có sự nỗ lực và vào cuộc của tất cả các cấp, các ngành, từ ngành Công an, Ngân hàng, đến các cấp chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội địa phương. Đồng thời, tăng cường an sinh xã hội, khả năng sinh kế cho người dân; chú trọng phát triển các kênh tín dụng, chính thức, trong đó, tín dụng chính sách xã hội là kênh chủ yếu cho các đối tượng nghèo… qua đó giảm thiểu tín dụng đen, góp phần ổn định xã hội./.