TCCS - Các yếu tố “dân hạnh phúc”, “chỉ số hạnh phúc”, “dân giám sát”, “dân thụ hưởng” là mục tiêu phấn đấu xuyên suốt của tỉnh Quảng Ninh, đặc biệt là trong nhiệm kỳ 2020 - 2025. Tất cả hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng đời sống toàn diện cho nhân dân, giảm khoảng cách vùng, miền, quyết tâm không để ai bị bỏ lại phía sau.

Hướng đi đúng, người dân được hưởng lợi

Những năm qua, tỉnh Quảng Ninh kiên trì, nhất quán thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, bao trùm, toàn diện, tăng trưởng xanh, chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh”; lấy người dân làm trung tâm, với mục tiêu cao nhất là mang lại sự bình yên và ngày càng phồn vinh, hạnh phúc của nhân dân. Xác định rõ tầm quan trọng đó, tỉnh Quảng Ninh luôn quan tâm và dành nguồn lực nhằm nâng cao chất lượng đời sống toàn diện cho nhân dân, giảm khoảng cách vùng, miền, quyết tâm không để ai bị bỏ lại phía sau. Bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội luôn là một chủ trương, nhiệm vụ lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội và là chìa khóa để phát triển toàn diện và bền vững.

Giai đoạn 2015 - 2020, tỉnh Quảng Ninh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách chăm lo bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Ngoài những chính sách chung của cả nước, tỉnh Quảng Ninh ban hành 19 chính sách riêng của tỉnh về an sinh, phúc lợi xã hội, nổi bật như: nâng mức chuẩn trợ giúp xã hội và mở rộng, bổ sung nhóm đối tượng thụ hưởng, chính sách bố trí nguồn lực đưa các xã, thôn ra khỏi diện đặc biệt khó khăn, hoàn thành mục tiêu Chương trình 135 giai đoạn 2017 - 2020  trên địa bàn tỉnh; mức chi hỗ trợ các dự án phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2018 - 2020; chính sách hỗ trợ trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên trên địa bàn tỉnh; một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách phòng, chống dịch COVID-19 bảo đảm an sinh xã hội và ổn định tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh… Đặc biệt, tỉnh Quảng Ninh ưu tiên bố trí nguồn lực lớn cho các vùng đặc biệt khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng chính sách, yếu thế. Việc thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Qua đó, giúp đồng bào các dân tộc thiểu số trong tỉnh thụ hưởng đầy đủ, kịp thời những chương trình, dự án, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhờ đó, đời sống vật chất, tinh thần của người dân vùng miền núi, biên giới, hải đảo ngày càng được nâng lên rõ rệt, kéo giảm chênh lệch vùng, miền, góp phần bảo đảm an ninh - quốc phòng.

Giai đoạn 2017 - 2020, bố trí ngân sách, huy động các nguồn lực với tổng kinh phí 1.544 tỷ đồng để cải thiện kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, hệ thống điện, trường học, trạm y tế, nước sinh hoạt và công trình hạ tầng khác phù hợp quy hoạch nông thôn mới... Tổng chi cho an sinh xã hội của tỉnh Quảng Ninh đạt khoảng 8.981 tỷ đồng, bình quân tăng 14,9%/năm, gấp 1,8 lần giai đoạn 2011 - 2015. Tỷ lệ dân cư thành thị được sử dụng nước sạch, dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh tăng lần lượt từ 93% và 91,4% năm 2015 lên 98% và 98,3% năm 2020. Hoàn thành việc triển khai hỗ trợ xây mới, sửa chữa nhà ở cho người có công (giai đoạn 2) với gần 4.000 hộ gia đình được thụ hưởng chính sách. Các chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, tín dụng ưu đãi cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; đào tạo nghề, hỗ trợ việc làm được triển khai hiệu quả; nhận thức, ý chí vươn lên thoát nghèo của người dân tại địa bàn khó khăn được nâng lên; nhiều hộ dân đã tự nguyện xin ra khỏi diện hộ nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí đa chiều giảm từ 4,56% năm 2015 xuống còn 0,23% năm 2020; giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị còn 4,05%.

Giai đoạn 2020 - 2022, tổng chi an sinh, phúc lợi xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đạt trên 6.000 tỷ đồng, gấp 2 lần so với trước đó. Riêng 6 tháng đầu năm 2023, con số này đạt 1.037 tỷ đồng, tăng 81% so cùng kỳ năm 2022 (cùng kỳ là 573 tỷ đồng). Nguồn ngân sách nhà nước chi cho an sinh, phúc lợi xã hội tập trung vào các chính sách việc làm, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, đào tạo nghề, giáo dục, y tế, giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa, bảo hiểm, trợ giúp xã hội đối với trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật. Tỉnh Quảng Ninh dành khoảng 2.600 tỷ đồng để thực hiện Chương trình tổng thể phát triển bền vững kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030, nhằm khuyến khích người nghèo, người dân ở vùng khó khăn phát triển sản xuất, vươn lên thoát nghèo và làm giàu, nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh. Ngoài ra, tỉnh Quảng Ninh cũng phân bổ 457 tỷ đồng kinh phí tăng cường cơ sở vật chất, mua sắm thiết bị dạy học ngành giáo dục; dành 245 tỷ đồng kinh phí tăng cường cơ sở vật chất ngành y tế (giai đoạn 1); 277 tỷ đồng kinh phí hỗ trợ học phí cho trẻ em mầm non, học sinh phổ thông, học viên giáo dục thường xuyên trên địa bàn. Từ nguồn tiết kiệm chi thường xuyên, tỉnh đã bố trí 745,5 tỷ đồng chi đầu tư công để đầu tư xây dựng 12 trường học chất lượng cao ở các huyện, thị xã, thành phố trong toàn tỉnh...

Bên cạnh chính sách của Trung ương, tỉnh Quảng Ninh ban hành những chính sách riêng nhằm bảo đảm an sinh xã hội, như chăm sóc, trợ giúp người có công với cách mạng, người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đối tượng yếu thế, người nghèo; hỗ trợ giáo dục, hỗ trợ bảo hiểm y tế, như Nghị quyết số 21/2021/NQ-HĐND, ngày 16-7-2021, của Hội đồng nhân dân tỉnh quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội và các đối tượng khó khăn khác trên địa bàn tỉnh, Nghị quyết số 08/2022/NQ-HĐND, ngày 9-12-2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số số 21/2021/NQ-HĐND, Nghị quyết số 43/2024/NQ-HĐND, ngày 23-9-2024 sửa đổi, bổ sung một số nội dung quy định tại Điều 1 Nghị quyết số 21/2021/NQ-HĐND, ngày 16-7-2021, của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ninh quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội và các đối tượng khó khăn khác trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản 1, Điều 1, Nghị quyết số 08/2022/NQ-HĐND, ngày 9-12-2022, của Hội đồng nhân dân tỉnh. Hiện nay, mức chuẩn trợ giúp xã hội của tỉnh là 700.000đồng/tháng (cao hơn 1,4 lần so với mức chuẩn của Trung ương); mở rộng hơn các đối tượng thuộc diện được hưởng chính sách trợ giúp xã hội so với quy định của Trung ương, như người từ đủ 75 tuổi trở lên được trợ cấp hằng tháng (Trung ương: 80 tuổi); người từ đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo được trợ cấp hằng tháng, được hỗ trợ bảo hiểm y tế; người cao tuổi không có khả năng lao động, thuộc hộ nghèo được hỗ trợ bảo hiểm y tế; mở rộng hơn các đối tượng trẻ em, người khuyết tật, người bị ốm đau và một số đối tượng khác thuộc diện khó khăn được hỗ trợ, trợ giúp xã hội...

Các cơ chế, chính sách an sinh xã hội bảo đảm nguồn lực cho lĩnh vực này là nền tảng cho tăng trưởng toàn diện và phát triển bền vững. Cuối năm 2022, tỉnh Quảng Ninh đã hoàn thành Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 theo chuẩn nghèo đa chiều Chính phủ quy định, chuyển sang thực hiện chuẩn nghèo đa chiều của tỉnh theo Nghị quyết số 13/2023/NQ-HĐND quy định chuẩn nghèo đa chiều áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2023 - 2025 với chuẩn thu nhập cao hơn 1,4 lần chuẩn thu nhập quy định tại chuẩn nghèo của Chính phủ.

Tỉnh Quảng Ninh thực hiện kịp thời chính sách cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi (đạt 99,8%); hỗ trợ chính sách đặc thù cho 6.218 lượt trẻ em theo Nghị quyết 21/2021/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân  tỉnh với tổng số tiền 9,84 tỷ đồng; thực hiện hỗ trợ cho 2.000 lượt trẻ em có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn tỉnh; bao phủ bảo hiểm y tế đạt 95,2%; số người tham gia bảo hiểm xã hội đạt 43,2% so với lực lượng lao động.

Tỉnh Quảng Ninh huy động mọi nguồn lực xã hội, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các cơ quan, đơn vị, địa phương cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân cùng chung tay thực hiện mục tiêu xóa nhà ở tạm, dột nát trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh với 246 nhà trong tháng 9-2023, từ đó, giúp người dân an cư lạc nghiệp, cải thiện đời sống, nhân lên niềm tin vào Đảng và chính quyền. Mở rộng cơ hội tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục chất lượng cao và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Chỉ số phát triển con người (HDI) nằm trong nhóm 5 địa phương cao nhất cả nước. Diện mạo, cảnh quan ở các địa phương thay đổi từng ngày. Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện... hướng đến các tiêu chí của “hạnh phúc” mà văn kiện Đại hội XIII đã nêu lên, trong đó cốt lõi là người dân phải được hưởng phúc lợi xã hội, hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống văn hóa tinh thần.

Một số bài học kinh nghiệm

Tỉnh Quảng Ninh xác định mục tiêu phát triển đến năm 2030 xây dựng, phát triển Quảng Ninh trở thành một tỉnh tiêu biểu của cả nước về mọi mặt; tỉnh kiểu mẫu giàu đẹp, văn minh, hiện đại, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; là cực tăng trưởng của khu vực phía bắc; một trong những trung tâm phát triển năng động, toàn diện; trung tâm du lịch quốc tế, trung tâm kinh tế biển, cửa ngõ của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước; đô thị phát triển bền vững theo mô hình tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng; là khu vực phòng thủ tỉnh ngày càng vững chắc về quốc phòng - an ninh và phòng tuyến hợp tác, cạnh tranh kinh tế quốc tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân giai đoạn 2021 - 2030 là 10%/năm, GRDP bình quân đầu người đạt từ 19.000 đến 20.000 USD.

Để hiện thực hóa mục tiêu đó, một trong những yêu cầu đặt ra là phải luôn quan tâm, chăm lo phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội; hướng tới sự phát triển bền vững, xem trọng xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tiến bộ, thống nhất trong đa dạng của một vùng văn hóa giàu có và hội tụ nhiều giá trị cao đẹp; chú trọng quan tâm tạo môi trường để con người phát triển toàn diện, có điều kiện vật chất, tinh thần phong phú; xây dựng con người Quảng Ninh theo hướng kết tinh những phẩm chất tốt đẹp về trí tuệ, sức khỏe, lòng nhân ái, về phong thái của sự khoáng đạt, quảng giao, khí chất khẳng khái, hào hiệp, văn minh và thân thiện.

Một là, tranh thủ sức mạnh tổng hợp của toàn quân, toàn dân và cả hệ thống chính trị toàn tỉnh trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người. Xác định việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người là trách nghiệm của cả hệ thống chính trị, là sự nghiệp toàn dân. Vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa, con người phải phát huy tính hiệu quả, đồng thời thực hiện tốt công tác phối kết hợp liên ngành trong công tác triển khai thực hiện. Trong đó xác định rõ nhân dân là chủ thể trong việc phát triển văn hóa và xây dựng con người; phải tôn trọng, phát huy vai trò chủ thể, sáng tạo của nhân dân, đặc biệt là đội ngũ trí thức.

Hai là, đẩy nhanh, đồng bộ việc thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa, con người thành pháp luật, các chính sách cụ thể, thiết thực, kể cả các chính sách đặc thù, tạo môi trường pháp lý, khơi dậy mọi tiềm năng, nguồn lực của xã hội. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế hiện nay.

Ba là, có tầm nhìn chiến lược trong đầu tư các thiết chế văn hóa trọng điểm; nhận diện kịp thời các thế mạnh tiềm năng, lợi thế về văn hóa để bố trí nguồn lực đầu tư phát triển. Tăng đầu tư cho hạ tầng cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao để phát triển và hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hóa theo hướng tăng cường tính hiệu quả, tính chi phối, không phát triển thiết chế theo một mô hình có sẵn, cứng nhắc, dàn trải mà phải phù hợp với đặc điểm vùng, miền, dân tộc, tôn giáo, từng nhóm đối tượng; phát huy tính tích cực của hệ thống thiết chế văn hóa truyền thống; tiếp tục xây dựng một số thiết chế văn hóa tiêu biểu, hiện đại, chuyên nghiệp trở thành thương hiệu của Quảng Ninh./.