Nâng cao hiệu quả truyền thông đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế

TS. Vũ Hồng Huy Ban Tuyên giáo Trung ương
21:52, ngày 06-07-2016

TCCSĐT - Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ 2016 - 2021 là: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế”(1). Để thực hiện nhiệm vụ trên, truyền thông đối ngoại giữ một vai trò quan trọng.

1- Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác truyền thông đối ngoại phục vụ mở cửa, hội nhập quốc tế. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, ngày 13-6-1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VII ra Chỉ thị số 11-CT/TW về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại, trong đó chỉ rõ những nội dung chủ yếu của thông tin đối ngoại là: tuyên truyền đường lối, chính sách và thành tựu đổi mới toàn diện của nước ta; những chủ trương quan trọng nhằm giải quyết một số vấn lớn hoặc đáng chú ý về kinh tế, chính trị, xã hội; phê phán, bác bỏ những thông tin xuyên tạc, sai lệch về tình hình Việt Nam, nhất là về tình hình dân chủ, nhân quyền; ngăn chặn việc truyền bá vào nước ta những quan điểm, tư tưởng, lối sống, văn hóa phản động, đồi trụy, kích động bạo lực; thông tin về chính sách đối ngoại, kể cả chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước, những khả năng to lớn của Việt Nam trong quan hệ hợp tác với các nước…

Tiếp đó, ngày 29-12-1998, Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII ra Thông báo số 188-TB/TW về công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới, trong đó bổ sung, nhấn mạnh những đối tượng, địa bàn ưu tiên và những trọng điểm tổ chức lực lượng để thực hiện công tác truyền thông đối ngoại; tiếp tục đầu tư và nâng cao chất lượng hệ thống thông tấn báo chí, xuất bản. Ngày 27-12-2001, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ra Quyết định số 16-QĐ/TW về thành lập Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại. Ngày 10-9-2008, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X ra Chỉ thị 26-CT/TW về tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới, xác định thông tin đối ngoại là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, với phương châm “chính xác, kịp thời, sinh động, phù hợp với từng đối tượng”. Đặc biệt, ngày 14-02-2012, Bộ Chính trị khóa XI ra Kết luận số 16-KL/TW về chiến lược thông tin đối ngoại giai đoạn 2011-2020, xác định rõ: “Thông tin đối ngoại là một bộ phận rất quan trọng trong công tác tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng ta; là nhiệm vụ thường xuyên lâu dài”. Thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 368/QĐ-TTg, ngày 28-02-2013 phê duyệt Chương trình hành động của Chính phủ về thông tin đối ngoại giai đoạn 2013 - 2020. Các văn bản trên cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước trong việc khẳng định tầm quan trọng của truyền thông đối ngoại trong giai đoạn mới.

2- Quán triệt các văn kiện của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua, công tác truyền thông đối ngoại đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tuyên truyền chủ trương và các hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong phát triển kinh tế - xã hội, đấu tranh bảo vệ chủ quyền và các lợi ích chính đáng của nước ta; nâng cao hình ảnh, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, tăng cường nguồn lực cho phát triển, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Hoạt động của các cơ quan truyền thông có sự chuyển biến rõ rệt về tổ chức, loại hình, quy mô, phương tiện kỹ thuật và ảnh hưởng xã hội, bảo đảm đưa thông tin tới người nước ngoài ở Việt Nam, tới cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và tới bạn bè quốc tế, góp phần thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế. Hệ thống báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình quốc gia, như Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, một số báo, tạp chí và nhà xuất bản lớn đã làm nòng cốt cho công tác tuyên truyền đối ngoại; từng bước tổ chức việc đưa thông tin của hệ thống này lên mạng internet, kịp thời cập nhật thông tin ra thế giới, phản ánh đầy đủ, kịp thời, toàn diện mọi mặt hoạt động của đất nước. Truyền thông đối ngoại đã mở rộng diện thông tin tới một số khu vực trên thế giới, phục vụ ngày càng tốt hơn chủ trương hội nhập và tăng cường đoàn kết quốc tế của Việt Nam. Trong đó, công tác cung cấp và quản lý thông tin cho phóng viên, cơ quan báo chí nước ngoài của Bộ Ngoại giao có nhiều tiến bộ, nhất là trong dịp tổ chức các hội nghị quốc tế lớn, các sự kiện chính trị, ngoại giao quan trọng trong khu vực và trên thế giới.

Hoạt động truyền thông đối ngoại đã cố gắng nâng cao chất lượng nội dung, đa dạng về hình thức thông tin. Điển hình là kênh truyền hình đối ngoại của Đài Truyền hình Việt Nam (VTV4), Truyền hình Công an nhân dân (ANTV) của Bộ Công an, Truyền hình Thông tấn (TTXVN) của Thông tấn xã Việt Nam, Truyền hình Nhân dân của Báo Nhân dân; chương trình phát thanh bằng tiếng nước ngoài của Đài Tiếng nói Việt Nam; các tạp chí: Đối ngoại của Ban Đối ngoại Trung ương, Thông tin đối ngoại của Ban Tuyên giáo Trung ương; các báo Vietnam News, Vietnam Courrier của Thông tấn xã Việt Nam, Vietnam Investment Review của Báo Đầu tư, Sài Gòn giải phóng bằng tiếng Hoa, Vietnam Economic Times của Thời báo Kinh tế Việt Nam, Saigon Times của Thời báo Kinh tế Gài Gòn...

Mạng lưới sách, báo, tạp chí điện tử và trang tin điện tử với gần 50 tờ báo và hơn 2.500 website trên mạng internet đã cung cấp lượng thông tin lớn cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế. Việc trao đổi thông tin với các nước trong khu vực và trên thế giới thông qua chương trình truyền hình ASEAN, hệ thống các cơ quan đại diện của Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân dân,... ở nước ngoài đã góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ truyền thông đối ngoại; thông tin kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về hợp tác, phát triển kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế, thúc đẩy quan hệ thương mại và hợp tác đầu tư giữa nước ta với các nước trên thế giới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; thông tin kịp thời về các công việc chung của cộng đồng quốc tế, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nhất là ASEAN, Liên hợp quốc, thúc đẩy thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC), tiến tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC).

3- Tuy nhiên, truyền thông đối ngoại còn bộc lộ không ít hạn chế. Nhận thức về tầm quan trọng của truyền thông đối ngoại ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhất là cơ quan chủ quản chưa thật đầy đủ. Trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn có lúc chưa theo kịp những chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình thế giới và khu vực. Hoạt động truyền thông đối ngoại nước ta hiện nay chưa ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng. Đặc biệt, các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới đang triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng in-tơ-nét để chống phá cách mạng nước ta.

Truyền thông trong nước đang bị sự cạnh tranh gay gắt bởi sự thâm nhập của các phương tiện truyền thông nước ngoài, trong đó có nhiều thông tin trái với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Các phương tiện truyền thông nước ngoài với những phương tiện truyền phát hiện đại, khả năng phủ sóng rộng, nội dung thông tin đa dạng có mặt đang “lấn sân” các phương tiện truyền thông đối ngoại nước ta.

Một số cơ quan truyền thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích, chưa làm tốt chức năng định hướng dư luận trong nước và quốc tế. Hệ thống pháp luật còn thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, tính công khai, minh bạch, tính khả thi, ổn định còn hạn chế; kỷ cương, kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực thi công vụ còn không ít yếu kém, gây trở ngại không nhỏ đối với hoạt động truyền thông đối ngoại và đội ngũ những người làm công tác trên lĩnh vực này. Đại hội XII của Đảng thẳng thắn chỉ rõ: “Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển”(2).

Bên cạnh đó, việc đầu tư cho truyền thông đối ngoại chưa tương xứng và còn dàn trải; bộ máy tổ chức chỉ đạo, quản lý chưa thật hợp lý, hoạt động chưa hiệu quả; công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý những tiêu cực, vi phạm trong hoạt động truyền thông đại chúng nói chung, trong hoạt động truyền thông đối ngoại nói riêng còn chậm và thiếu triệt để. Trong thời gian qua, mặc dù các cơ quan truyền thông đại chúng nói chung, truyền thông đối ngoại nói riêng đã có những cố gắng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, song nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra về truyền thông đối ngoại và hội nhập quốc tế một cách sâu rộng. Hệ thống thiết chế truyền thông và cơ sở vất chất - kỹ thuật cho hoạt động truyền thông còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp...

4- Để nâng cao chất lượng truyền thông đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế một cách sâu rộng, cần nắm vững quan điểm, phương hướng, nhiệm vụ trên một số nội dung cơ bản sau:

Nắm vững quan điểm Nghị quyết Đại hội XII của Đảng: “Năm năm tới là thời kỳ Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế trong Cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải nỗ lực rất cao để tận dụng thời cơ, vượt qua những thách thức lớn trong quá trình hội nhập”(3).

Về phương hướng, nhiệm vụ, cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:

Một là, nắm vững phương hướng, nhiệm vụ đối ngoại trong giai đoạn mới là: “Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại đa phương, chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương. Kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của đất nước”(4).

Hai là, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với hoạt động đối ngoại và truyền thông đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động truyền thông đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước và đối ngoại của nhân dân, giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa, giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

Ba là, các cơ quan truyền thông, nhất là truyền thông đối ngoại phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ. Khẩn trương quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống truyền thông, trong đó có truyền thông đối ngoại, đáp ứng yêu cầu phát triển, bảo đảm thiết thực, hiệu quả; chú trọng công tác quản lý các loại hình thông tin trên internet để định hướng tư tưởng. Đồng thời, “tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”(5).

Bốn là, chủ động tuyên truyền hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng hóa các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc. Chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua thách thức để giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc, hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn hóa.

Năm là, tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu về đối ngoại; đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại; chăm lo đào tạo, xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và truyền thông đối ngoại; bồi dưỡng kiến thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp.

Sáu là, đầu tư, nâng cấp và đổi mới cơ sở vật chất - kỹ thuật, hiện đại hóa hệ thống trang thiết bị, thu hẹp khoảng cách về công nghệ truyền thông giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới, trên cơ sở đó góp phần nâng cao một bước trình độ và chất lượng sản phẩm truyền thông, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế một cách sâu rộng./.

--------------------------------------

(1), (2), (3), (4), (5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 219, 125, 73-74, 153-154, 201