Bức tranh thế giới đương đại
TCCSĐT - Đẹp biết bao và cũng phức tạp biết bao thế giới mà chúng ta đang sống. Những chuyển biến lớn lao của thế giới có những điều kỳ diệu nhưng cũng có cả những biến cố, bí ẩn khôn lường. Có một thế giới đang đi về phía trước ngày càng tốt đẹp hơn nhưng trong đó vẫn tồn đọng bao điều phi lý, mâu thuẫn. Có những nỗi buồn vô cớ đến kỳ cục của giai tầng quá giàu có đến nỗi mọi nhu cầu, mọi khát vọng của họ đều được đáp ứng, thỏa mãn, kể cả việc bay lên trời hay chui xuống biển; họ buồn vì như vậy là “bất hạnh”, chẳng còn điều gì cần thiết và đáng để mà mong đợi, không còn gì để có được niềm vui. Trong khi đó, có những niềm vui thật lớn lao khi chỉ nhận được những gói hàng cứu trợ là lương thực, thuốc men đối với những người cùng cực do đói khổ loạn lạc, thiên tai. Có những thành phố cực kỳ sang trọng, sầm uất đầy sắc hoa và không khí trong lành quyến rũ thì cũng có những nơi đổ nát hoang tàn khét lẹt mùi súng đạn. Ấm áp, thanh bình có ở nhiều nơi, nhưng súng vẫn nổ chưa bao giờ ngưng nghỉ cũng ở nhiều nơi trên trái đất vì thế giới còn bao kẻ lái súng chẳng muốn ai yên.
Đúng là thế giới có bao nghịch lý và biết bao sự kiện ngổn ngang đang diễn ra từng ngày, từng giờ, nhưng trong các phức tạp và hỗn độn ấy vẫn có thể tìm ra những nét chung nhất và chiều hướng vận động phát triển của thế giới. Nhận diện được đặc điểm và những nhân tố quan trọng nhất đang tác động và chi phối thế giới hôm nay và thời gian sắp tới là công việc vô cùng hệ trọng cho mỗi đất nước và cho mỗi chúng ta. Có thể phác họa bức tranh thế giới đương đại với những đường nét chính yếu như sau:
Những nét chính đã hình thành, đang rõ nét và tiếp tục phát triển của bức tranh thế giới
Cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, kinh tế tri thức và sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất xã hội
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại bắt đầu từ giữa thế kỷ XX đến nay đang phát triển mạnh mẽ với nhiều kỳ tích trên nhiều lĩnh vực, nhất là trên các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng, vật liệu mới, nanô, vũ trụ… Khoa học và công nghệ đã cải biến về chất các lực lượng sản xuất và biến khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, làm cho lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá rất cao.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã làm thay đổi sâu sắc các yếu tố của lực lượng sản xuất, tác động sâu sắc đến sản xuất và cuộc sống tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, dù lớn hay nhỏ, dù có những chế độ chính trị và lối sống khác nhau, làm thay đổi bộ mặt hành tinh chúng ta và thúc đẩy dòng chảy của thế giới hiện nay.
Những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển đã biến tri thức trở thành yếu tố quan trọng bên trong của quá trình sản xuất và quyết định sự phát triển của nền kinh tế. Bất cứ sản phẩm nào của con người cũng hàm chứa tri thức. C.Mác đã nhận định từ giữa thế kỷ XIX: “Tất cả sản phẩm lao động đều là kết quả của quá trình vật hoá sức mạnh của tri thức”(1). Quả nhiên như vậy, hiện nay trên thế giới đã xuất hiện một thế hệ máy móc thông minh có tính thần kỳ đáp ứng được cơ chế vận hành của tri thức. Từ những tiền đề vật chất kĩ thuật và thực tiễn, trên thế giới đã xuất hiện và trở thành quen thuộc khái niệm “nền kinh tế tri thức”. Đấy là một nền kinh tế trong đó sự sản sinh, sự truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu của tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo ra việc làm trong tất cả các ngành kinh tế.
Toàn cầu hoá
Quá trình toàn cầu hoá ngày càng phát triển theo cả chiều rộng và bề sâu, thúc đẩy sự phát triển và xã hội hoá lực lượng sản xuất, sự liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới, nhất là về thương mại, tài chính quốc tế. Toàn cầu hoá làm sâu sắc hơn sự chuyên môn hóa và phân công lao động quốc tế, kích thích gia tăng sản xuất không chỉ ở cấp quốc gia mà còn trên quy mô toàn thế giới, làm cho cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, dẫn đến tăng năng suất lao động nhờ hợp lý hoá, thúc đẩy sự giao lưu giữa các quốc gia, làm cho con người ở mọi châu lục hiểu biết nhau hơn, nắm được thông tin toàn thế giới rất nhanh chóng.
Toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình vận động phức tạp, chứa đựng cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực, cả cơ hội và thách thức cho các quốc gia, dân tộc, nhất là cho các nước đang phát triển và nước nghèo; là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh. Toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy toàn cầu hoá trên các lĩnh vực khác.
Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh
Trong thế giới hiện nay, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, xét về lâu dài và toàn cục, là mâu thuẫn cơ bản nhất. Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội nên bản chất xuyên suốt thời kỳ quá độ là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
Nhưng, thế giới hiện nay đã có nhiều thay đổi, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại không nhiều, thế giới đi vào toàn cầu hóa, trở thành một thị trường thống nhất, vì vậy cả chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trên thế giới vẫn tiếp tục cùng tồn tại hòa bình, hợp tác để cùng phát triển, hai bên cùng có lợi, không còn đối đầu trực tiếp và đối kháng quyết liệt như trước. Sự hợp tác diễn ra trên mọi lĩnh vực, ở cấp song phương, đa phương cũng như trên phạm vi toàn cầu. Các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa “diễn biến hòa bình” vừa “chống diễn biến hòa bình”, tăng cường đối thoại để giải quyết tranh chấp; đấu tranh để hợp tác và phát triển.
Những gam màu chi phối bức tranh thế giới
Chủ nghĩa xã hội hiện thực
* Thực trạng các nước xã hội chủ nghĩa
- Chủ nghĩa xã hội hiện thực trong hơn 90 năm tồn tại đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi bộ mặt thế giới hiện đại: góp phần quan trọng đánh thắng chiến tranh đế quốc, chiến tranh phát xít, bảo vệ hoà bình thế giới, là chỗ dựa cho phong trào giải phóng dân tộc; là niềm cổ vũ cho phong trào cách mạng thế giới; là tấm gương và niềm tin ở tương lai tươi sáng cho loài người.
- Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu bắt nguồn từ những nguyên nhân trực tiếp và sâu xa. Cải tổ là tất yếu nhưng sụp đổ không phải là tất yếu. Đấy không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội mà là sự sụp đổ của một mô hình sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, xa rời bản chất khoa học, cách mạng, biện chứng và sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
- Chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, nhưng lý tưởng của chủ nghĩa xã hội hiện thực vẫn rực sáng, vẫn tranh thủ được trái tim, khối óc của hàng tỉ con người trên thế giới, nhất định sẽ vượt qua khó khăn, thử thách để tiếp tục phát triển. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, với những đặc thù khác nhau, có sự phát triển khác nhau, đang ra sức tìm tòi, sáng tạo, hoàn thiện mô hình mới của chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay (Việt Nam, Trung Quốc, Cu-ba…).
Mô hình mới của chủ nghĩa xã hội trước hết ở tốc độ phát triển cùng chất lượng phát triển cao và bền vững, có hiệu quả thực sự và mang lại tiến bộ, công bằng xã hội. Biện pháp để đạt tới mục tiêu đó là hết sức phong phú, đa dạng. Vấn đề ưu tiên đặt ra là phải phát triển lực lượng sản xuất và căn cứ vào yêu cầu ưu tiên đó mà lựa chọn các hình thức quan hệ sản xuất, xã hội và chính trị phù hợp.
Thực hiện mô hình mới nói trên phải bảo đảm không để tụt hậu về kinh tế – xã hội, phải có sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản cầm quyền, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, luôn tạo ra sự đồng thuận xã hội, phải kiên quyết, thường xuyên chống các căn bệnh bè phái, quan liêu, tham nhũng, thoái hoá, biến chất trong hệ thống chính trị và đấu tranh với sự chống phá của các thế lực thù địch.
* Thực trạng các nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa tư bản ở thế thượng phong, cho rằng chủ nghĩa xã hội đã kết thúc nhiệm vụ lịch sử, chủ nghĩa tư bản tồn tại vĩnh hằng, loài người chỉ còn một con đường là đi theo chủ nghĩa tư bản.
Nhưng cuộc sống không diễn ra như thế. Nhiều nước độc lập dân tộc và nước đang phát triển thoát khỏi xiềng xích của chủ nghĩa thực dân, đã quá thấu hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản, đế quốc nên kiên quyết từ bỏ con đường phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa. Trong khi đó, điều hiển nhiên mà người ta vẫn thấy chủ nghĩa xã hội là tương lai, là hy vọng của loài người. Vì vậy một số nước ở châu Á, Trung Á, châu Phi và Mỹ La-tinh chọn con đường đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có nước đặt quốc hiệu với tính từ “xã hội chủ nghĩa”, hoặc tuyên bố theo “chủ nghĩa xã hội kiểu mới”. Tinh thần chung là nêu cao tinh thần độc lập dân tộc, đề cao vai trò làm chủ của nhân dân, nhà nước phấn đấu giải quyết tốt những vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách trong cuộc sống của nhân dân.
Nhưng khó khăn chung của các nước nói trên là trình độ phát triển còn thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng đều yếu kém, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản chưa nắm quyền lãnh đạo, lại gặp sự chèn ép của các nước phát triển và các tập đoàn xuyên quốc gia. Tuy nhiên, nhân dân và chính quyền nước sở tại vẫn hướng tới những mục tiêu xã hội chủ nghĩa, có niềm tin ở chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại
* Sự phát triển lực lượng sản xuất ở các nước tư bản và các tập đoàn xuyên quốc gia
Chủ nghĩa tư bản hiện đại trong thời đại ngày nay đã khác nhiều so với chủ nghĩa tư bản đầu thế kỷ XX, càng khác xa so với chủ nghĩa tư bản cổ điển ở thế kỷ XIX mà C.Mác, Ph.Ăng-ghen từng chứng kiến.
Chủ nghĩa tư bản thời Mác là chủ nghĩa tư bản tiền độc quyền, thời Lê-nin là chủ nghĩa tư bản độc quyền và ngày nay là chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá.
Nhờ tận dụng được những thành tựu kỳ diệu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, chủ nghĩa tư bản ngày nay đã phát triển vượt bậc lực lượng sản xuất của mình. Các nước tư bản phát triển chiếm ưu thế tuyệt đối trong nghiên cứu và sản xuất các ngành điện tử, tin học, vật liệu mới, năng lượng mới, công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ, công nghệ nanô… Các nước đó đã thật sự đi vào nền kinh tế tri thức, cơ cấu kinh tế của các nước đó cũng thay đổi rất lớn. Tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong tổng GDP rất thấp, khu vực công nghiệp tăng mạnh và khu vực dịch vụ tăng gấp ba khu vực công nghiệp.
Trong các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, quy mô sản xuất kinh doanh của các công ty, tổng công ty ngày càng lớn, từ vài chục triệu USD lên đến hàng nghìn tỉ USD, hình thành nên những tập đoàn xuyên quốc gia. Các tập đoàn này trở thành lực lượng kinh tế hùng mạnh trong nền kinh tế toàn cầu về sở hữu tài sản (đang nắm hàng trăm nghìn tỉ USD); về số lượng (70.000 tập đoàn với 600.00 chi nhánh bám rễ vào hầu hết các nước trên thế giới); về nắm FDI (nắm 15.000 tỉ USD bằng 37% GDP toàn cầu). Chiến lược hoạt động của các tập đoàn xuyên quốc gia là toàn cầu hoá hoạt động kinh doanh; phối hợp chiến lược toàn cầu; đa dạng hoá hoạt động kinh doanh toàn cầu.
Để thích nghi với thời đại và thế giới đang ngày càng có nhiều biến đổi, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã có những điều chỉnh về quan hệ kinh tế và quan hệ xã hội. Về chế độ sở hữu, hình thức cổ phần và sở hữu hỗn hợp đã trở thành các hình thức phổ biến ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đông đảo nhân dân, công nhân, người ăn lương đều là chủ sở hữu các cổ phần, nhưng số cổ phần lớn nhất vẫn thuộc về chủ tư bản.
- Về chế độ phân phối thu nhập: Ở nhiều nước tư bản phát triển đã có những điều chỉnh quan trọng trên lĩnh vực phân phối thu nhập: tăng tiền lương, giảm giờ làm, cải thiện điều kiện làm việc, giảm nặng nhọc cho người lao động. Nhờ đó, mức sống và đời sống người lao động dần được cải thiện nhiều, có cuộc sống sung túc hơn. Nhà nước thông qua các loại thuế thu vào ngân sách một số tiền rất lớn mà một phần quan trọng dành cho các nhu cầu xã hội của người lao động.
- Những điều chỉnh về xã hội của chủ nghĩa tư bản: Những biện pháp mà chủ nghĩa tư bản sử dụng là thiết lập các chế độ bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm y tế công cộng, bảo trợ xã hội như chương trình nhà ở công cộng cho người có thu nhập thấp, chương trình bữa trưa học đường cho con em gia đình nghèo, chương trình trợ cấp người già, phụ nữ, trẻ sơ sinh; cứu trợ xã hội và phúc lợi xã hội.
Rõ ràng là chủ nghĩa tư bản đã tồn tại và tiếp tục phát triển, đã có những bước điều chỉnh đáng kể trên nhiều lĩnh vực, đã hình thành những đường nét khá sinh động. Tuy nhiên, những mâu thuẫn bên trong nền kinh tế và xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa vẫn đang hiện hữu luôn chờ có dịp bùng nổ. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ Mỹ hiện tại là minh chứng rõ ràng. Ở một khía cạnh khác, chính những thành công của các chiến lược thích nghi của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những tiền đề vật chất và những yếu tố xã hội chủ nghĩa cho một sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Chính C.Mác đã cho rằng, đến một giai đoạn phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất và của những hình thái sản xuất xã hội tương ứng với những lực lượng đó, thì tất nhiên là một phương thức sản xuất mới tất yếu sẽ nảy sinh và phát triển từ trong lòng phương thức sản xuất cũ.
Các nước đang phát triển
Các nước đang phát triển chiếm 75% số nước trên thế giới. Phá sập hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc là thành quả vĩ đại của phong trào giải phóng dân tộc dựa vào hệ thống xã hội chủ nghĩa ở thế kỷ XX. Các nước mới giành được độc lập tự do ấy bắt tay vào xây dựng kinh tế mới, một xã hội mới và thường được gọi là “các nước đang phát triển “ hoặc “thế giới thứ ba”. Trong số các nước đang phát triển, có nước đi theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, có nước đi theo con đường “định hướng xã hội chủ nghĩa” hoặc con đường “phi tư bản chủ nghĩa”
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), các nước đang phát triển là những nước có mức thu nhập bình quân đầu người từ 765 USD đến 9.385 USD và được chia theo ba loại : nước đang phát triển có thu nhập thấp, có thu nhập trung bình và có thu nhập cao.
Các nước đang phát triển trong thế giới toàn cầu hoá kinh tế đứng trước những cơ hội và những khó khăn, thách thức hết sức to lớn. Cuộc đấu tranh của các nước đó chống nghèo đói và lạc hậu, chống sự chèn ép của các nước phát triển, chống sự can thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là cực kỳ khó khăn. Các nước tư bản phát triển khai thác nguyên liệu, nhiên liệu và nhân công các nước đang phát triển với giá rẻ mạt và bán vật tư, hàng hoá cho các nước đó với giá cắt cổ. Theo UNDP, các nước phát triển chiếm 85% thu nhập của thế giới, còn các nước đang phát triển mỗi năm mất 500 tỉ USD về xuất khẩu hàng hoá, lao động sang các nước phát triển.
Tuy còn gặp nhiều khó khăn thách thức, các nước đang phát triển đã từng bước vươn tầm, khẳng định vai trò và vị trí của mình trên thế giới.
Từ sự lớn mạnh về kinh tế và tinh thần đấu tranh kiên cường, các nước đang phát triển có vị trí chính trị ngày quan trọng trong đời sống quốc tế. Trong những năm tới, có thể thêm đại diện các nước đang phát triển được bầu vào Uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các tổ chức của Liên hợp quốc cũng như vào ban lãnh đạo các tổ chức thương mại, tài chính lớn của thế giới. Các nước đang phát triển sẽ có tiếng nói quyết định để ngăn chặn các cuộc chiến tranh xâm lược, các hành động áp bức ngang ngược của các nước đế quốc.
Những điểm chuyển dịch tác động đến bức tranh thế giới sắp tới
Trật tự mới của thế giới
Kể từ thập niên 90, thế kỷ XX, sau Chiến tranh lạnh, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất. Mỹ chiếm vị trí hàng đầu với ưu thế vượt trội về kinh tế, khoa học - công nghệ, quân sự. Về kinh tế, GDP của Mỹ hiện chiếm khoảng 30% GDP thế giới trong khi dân số Mỹ chỉ bằng 4,6% dân số thế giới. Mỹ đóng góp nhiều nhất và có ảnh hưởng lớn nhất trong nhiều tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế quan trọng như trong IMF là 18,4% và WB là 14,5%. Về khoa học - công nghệ, Mỹ dành ngân sách cho nghiên cứu và phát triển chiếm hơn 40% ngân sách của toàn cầu cho việc đó, chiếm hơn 60% số bằng phát minh khoa học trên thế giới và chiếm hầu hết các giải Nobel về khoa học - công nghệ. Về quân sự, Mỹ có ngân sách quốc phòng lớn nhất thế giới, gần như bằng tổng chi phí quân sự của tất cả các nước trên thế giới, chiếm 80% tổng chi phí cho nghiên cứu khoa học - kỹ thuật quân sự của toàn thế giới; có nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại nhất; có gần 300.000 quân với 800 căn cứ quân sự ở nước ngoài.
Nhưng sức mạnh của Mỹ đang suy giảm tương đối. Kinh tế Mỹ bị suy thoái nghiêm trọng và đã trở thành tâm điểm của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Mỹ đang bị sa lầy trong các cuộc chiến tranh ở I-rắc, Áp-ga-ni-xtan và trong cuộc chiến chống khủng bố quốc tế. Tuy nhiên, mặc dù vậy, vẫn chưa có cường quốc nào, kể cả Nga và Trung Quốc, có đủ sức thách thức vị trí số một của Mỹ.
Sự vươn lên mạnh mẽ của Trung Quốc là nét nổi bật của đầu thế kỷ XXI. Trong gần ba thập niên liên tục, Trung Quốc có GDP bình quân hằng năm tăng trên 9,4%, tổng kim ngạch thương mại xếp thứ 3 thế giới, là một nước thu hút vốn FDI và có dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới. Sức mạnh về quân sự của Trung Quốc cũng tăng lên, đặc biệt là vũ khí chiến lược, hải quân và không quân. Trung Quốc đã chuyển từ chiến lược “giấu mình chờ thời” sang chiến lược “ngoại giao nước lớn”, “ngoại giao năng lượng”. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, nhất là sau những trận động đất lớn trong tháng 5-2008, sự kiện ở Tân Cương đầu năm 2009 và sự kình địch của những nước lớn khác cũng như của một số nước láng giềng lo ngại về “mối đe doạ của Trung Quốc”. “Hiện tượng Trung Quốc” tác động mạnh đến lực lượng so sánh giữa các nước lớn.
Nhật Bản tuy chững lại trong phát triển kinh tế nhưng vẫn duy trì vị trí siêu cường kinh tế thứ hai sau Mỹ và vẫn là một đầu tàu của nền kinh tế khu vực. Tuy nhiên, vị trí kinh tế đó đang bị thách thức nghiêm trọng trong khi tình hình chính trị của đất nước chưa thật ổn định. Nhật Bản có tham vọng trở thành “cường quốc chính trị”, giành vai trò chủ đạo ở châu Á, tạo thế cân bằng quyền lực với Mỹ và Trung Quốc trong khu vực, đang vận động trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Liên minh châu Âu (EU) đã trở thành một tổ chức khu vực hùng mạnh gồm 27 nước, có vị trí ngày càng cao trong thị trường tài chính, tiền tệ thế giới, có trình độ liên kết cao và phạm vi liên kết rộng. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, EU chưa có khả năng trở thành siêu cường vì còn nhiều khó khăn về kinh tế, chính trị, an ninh, do đó chưa có vai trò đáng kể trong việc giải quyết các cuộc khủng hoảng trên thế giới.
Nga đã có những chuyển biến cơ bản và nổi bật kể từ tháng 3-2000 khi Pu-tin làm tổng thống. Kinh tế phát triển mạnh, quốc phòng được tăng cường, đời sống nhân dân được cải thiện, uy tín quốc tế được nâng cao, việc chấn hưng đất nước đang có đà tiến triển vững vàng. Tổng thống Đ.Mét-vê-đép tiếp tục đường lối của cựu Tổng thống Pu-tin, quyết tâm đưa nước Nga trở lại vị trí siêu cường như Liên Xô trước đây. Tuy nhiên, Nga còn gặp nhiều khó khăn và chịu nhiều sức ép từ Mỹ và các nước phương Tây.
Ấn Độ vươn lên mạnh mẽ cũng là một nét nổi bật của thế kỷ XXI. Kinh tế Ấn Độ phát triển nhanh và ổn định, đứng thứ 9 thế giới về mức GDP, đứng thứ 7 thế giới về dự trữ ngoại tệ, thứ 2 thế giới về sản xuất phần mềm máy vi tính, chỉ đứng sau Mỹ. Ấn Độ có mục tiêu trở thành một cường quốc khu vực và toàn cầu. Tuy nhiên, Ấn Độ cũng gặp nhiều thách thức như khan hiếm năng lượng, kết cấu hạ tầng yếu kém, phân hoá giàu nghèo khá lớn, người mù chữ còn nhiều, chính trị nội bộ chưa thật ổn định và phải đối phó với sự kiềm chế của Trung Quốc và Pa-ki-xtan.
Vai trò và quan hệ giữa các nước lớn
Các nước lớn gồm Hoa Kỳ, Ca-na-da, Anh, Pháp, Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản, Ô-xtrây-li-a, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Bra-xin. Các nước trên chiếm hơn 1/3 lãnh thổ, hơn 1/2 dân số, hơn 70% GDP của cả thế giới; đa số là những cường quốc hàng đầu về kinh tế, khoa học và công nghệ, sức mạnh quân sự. Năm nước lớn là ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Các nước lớn có vai trò rất quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình thời đại ngày nay và tác động đến an ninh, phát triển của các quốc gia trên hành tinh.
Xu hướng cơ bản trong quan hệ giữa các nước lớn là trên cơ sở tính độc lập, tự chủ ngày càng cao, các nước tăng cường hợp tác và đối thoại, tránh xung đột, đối đầu mặc dù giữa họ còn nhiều mâu thuẫn và bất đồng. Xu hướng cạnh tranh để giành ảnh hưởng và lợi ích giữa họ trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều khu vực trên thế giới ngày càng gay gắt trong tư thế vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa hợp tác vừa kiềm chế lẫn nhau.
Tình hình quan hệ giữa các nước lớn có nhiều chuyển biến mới. Hình thái vừa hợp tác vừa đấu tranh giữa các nước lớn trong quá trình hình thành trật tự thế giới mới còn diễn ra phức tạp khó lường, tác động nhiều mặt đến hoà bình, an ninh và phát triển của các quốc gia. Nhưng khi các nước lớn thỏa hiệp với nhau để nhằm đạt một số lợi ích chung nào đó thì sẽ bất lợi cho các nước nhỏ và các nước đang phát triển.
Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay, các nước nhỏ cũng có vai trò đáng kể góp phần quyết định tiến trình phát triển của thế giới. Không phải các nước lớn muốn làm gì cũng được.
Đặc điểm bức tranh thế giới đương đại
Do tác động của các xu thế lớn đã đề cập và phân tích ở trên, bức tranh thế giới sẽ có một số đặc điểm là:
- Cách mạng khoa học công nghệ và quá trình toàn cầu hóa đã làm thay đổi nhanh chóng sắc màu bức tranh toàn cảnh của thế giới. Đời sống xã hội loài người ngày càng văn minh, khoảng cách địa lý càng thu hẹp, mức độ tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng cao, sự giao thoa văn hóa và hiểu biết lẫn nhau ngày càng lớn hơn. Đây là những yếu tố quan trọng thúc đẩy khả năng hợp tác quốc tế, ngăn ngừa rủi ro xung đột và chiến tranh.
- Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa các nước để xử lý. Một mặt, các quốc gia cạnh tranh với nhau để bảo đảm sự an toàn cho mình; mặt khác, lại buộc phải phối hợp với nhau để tìm giải pháp giải quyết những vấn đề toàn cầu vì sự sinh tồn và phát triển chung của nhân loại và chính mình.
- Hệ thống thể chế quốc tế phát triển hơn, cả về chiều rộng (độ phủ) lẫn chiều sâu (vai trò, hiệu lực) và vai trò các chủ thể phi chính phủ tăng lên, tạo ra mạng lưới liên kết toàn cầu, gắn chặt hơn các quốc gia với nhau trong các khuôn khổ và luật chơi với những quan niệm giá trị mới được thừa nhận rộng rãi. Đời sống quốc tế do đó có xu hướng dân chủ hơn và hạn chế phần nào khả năng các nước lớn tập hợp các lực lượng theo từng khối nhóm nước để chống khối nước khác.
(1) C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, t46, tr 368-372
Những nội dung cơ bản trong chất vấn và trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ sáu, Quốc hội Khóa XII  (19/11/2009)
Chính sách bảo hiểm thất nghiệp góp phần bảo đảm an sinh xã hội  (19/11/2009)
Mười năm thực hiện Quy chế Dân chủ cơ sở ở tỉnh Lào Cai  (19/11/2009)
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
- Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam