Tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường để phát triển bền vững

ThS. Bùi Thanh Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
17:22, ngày 09-07-2013
TCCSĐT - Nhấn mạnh vai trò của công tác bảo vệ môi trường trong giai đoạn hiện nay, Hội nghị Trung ương 7 khóa XI xác định: Đến năm 2020, Việt Nam…; có bước chuyển biến cơ bản trong khai thác, sử dụng tài nguyên theo hướng hợp lý, hiệu quả và bền vững; kiềm chế mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường và suy giảm đa dạng sinh học nhằm bảo đảm chất lượng môi trường sống, duy trì cân bằng sinh thái, hướng tới nền kinh tế xanh, thân thiện môi trường.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định phương hướng phát triển cơ bản của nước ta là “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường”. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 nêu quan điểm “Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường”.

Để thực hiện tốt các nhiệm vụ đó, cần tăng cường công tác quản lý nhà nước trong bảo vệ môi trường.

Một số kết quả bước đầu

Nhận thức về bảo vệ môi trường của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đã có chuyển biến tích cực; bước đầu hình thành ý thức bảo vệ môi trường trong các tầng lớp nhân dân.

Hệ thống chính sách, pháp luật và tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đã được hình thành tương đối đồng bộ và đang từng bước được hoàn thiện.

Các chủ trương, quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường cơ bản đã được thể chế hóa thành chính sách, pháp luật của Nhà nước. Năm 1991, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững giai đoạn 1991 - 2000. Tiếp theo, Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, Chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030,… đã đề ra các định hướng về bảo vệ môi trường. Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Thủy sản và các văn bản luật có liên quan, các văn bản dưới luật đã quy định khá đầy đủ, chi tiết, cụ thể những nội dung phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm, phục hồi môi trường và cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân, về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. Bên cạnh đó, các cơ chế, công cụ, chế tài bảo vệ môi trường cũng được quy định trong Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Đầu tư, Luật Thuế bảo vệ môi trường. Hầu hết các luật này đã được bổ sung, sửa đổi, có đạo luật được sửa đổi một số lần trong thời gian giữa các nhiệm kỳ Đại hội IX, X và XI nên kịp thời thể chế hóa, góp phần sớm đưa các chủ trương, quan điểm bảo vệ môi trường của Đảng vào cuộc sống.

Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đã được thiết lập đồng bộ cả ở Trung ương, địa phương và từng bước được kiện toàn. Năm 2002, Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập. Năm 2008, Tổng cục Môi trường được thành lập, thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường. Ở các bộ, ngành đã có các đơn vị trực thuộc chuyên trách công tác bảo vệ môi trường. Lực lượng phòng chống tội phạm môi trường đã được thành lập, góp phần ngăn ngừa, hạn chế hành vi gây ô nhiễm môi trường.

Tại các địa phương, đã có Sở Tài nguyên và Môi trường ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng Tài nguyên và Môi trường ở các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và có cán bộ kiêm nhiệm quản lý môi trường ở xã, phường, thị trấn. Nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty, ban quản lý khu công nghiệp, doanh nghiệp lớn đã có phòng, ban, bộ phận hoặc bố trí cán bộ chuyên trách về môi trường.

Nguồn lực tài chính và các điều kiện cần thiết cho bảo vệ môi trường được bảo đảm ngày càng tốt hơn. Nguồn chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp môi trường được cân đối đạt mức 1% tổng chi ngân sách hằng năm, tăng nhiều lần so với trước đây. Năm 2006 là 2.900 tỷ đồng, thì năm 2012 đã lên tới 9.050 tỷ đồng.

Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA được huy động cho bảo vệ môi trường cũng tăng nhanh. Một số thể chế tài chính về bảo vệ môi trường được hình thành, đi vào hoạt động, như Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam, quỹ bảo vệ môi trường của một số ngành, địa phương đã góp phần tăng cường các nguồn vốn hỗ trợ thực hiện công tác bảo vệ môi trường. Một số công cụ kinh tế, như thuế, phí bảo vệ môi trường đã góp phần tạo nguồn thu từ xã hội để đầu tư cho bảo vệ môi trường.

Việc xã hội hoá hoạt động bảo vệ môi trường bước đầu đã đem lại kết quả đáng ghi nhận. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp tư nhân tham gia cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường, như cấp thoát nước, xử lý nước thải, khí thải, thu gom và xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại, hoạt động tư vấn, thiết kế...

Nước ta đã tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế, tham gia 20 điều ước quốc tế về môi trường; đã có gần 40 chương trình, dự án lớn về bảo vệ môi trường được thực hiện với các đối tác trên cơ sở song phương và đa phương. Việt Nam cũng tham gia tích cực vào các diễn đàn thế giới và khu vực về bảo vệ môi trường, đặc biệt là các hoạt động hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường trong khu vực châu Á, ASEAN, các nước tiểu vùng sông Mê Công mở rộng.

Công tác phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm đã góp phần kiềm chế, làm chậm lại tốc độ gia tăng ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ chức năng, tính hữu ích của các thành phần môi trường.

Thời gian qua, kinh tế nước ta phát triển nhanh, đô thị hóa, công nghiệp hóa diễn ra mạnh mẽ, gây áp lực lớn lên môi trường. Thông thường trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, ô nhiễm môi trường có thể gia tăng ở mức gấp nhiều lần so với mức tăng GDP(1). Tuy nhiên, những nỗ lực bảo vệ môi trường đã góp phần kiềm chế, làm chậm lại tốc độ gia tăng ô nhiễm, suy giảm chất lượng môi trường sống ở nước ta.

Báo cáo môi trường hằng năm được xây dựng và công bố rộng rãi. Các hệ thống thông tin, dữ liệu về môi trường đã được hình thành, bước đầu đáp ứng yêu cầu quản lý, bảo vệ môi trường.

Những hạn chế, yếu kém

Nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và người dân về bảo vệ môi trường chưa đầy đủ, chưa chuyển thành ý thức và hành động cụ thể, thường xuyên. Vẫn còn khoảng cách lớn giữa nhận thức và hành động, giữa cam kết và thực hiện trong bảo vệ môi trường. Đặc biệt, trong chỉ đạo, điều hành, tư tưởng “ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế, xem nhẹ yêu cầu bảo vệ môi trường” còn khá phổ biến ở nhiều cấp ủy và chính quyền các cấp.

Ý thức về bảo vệ môi trường vẫn chưa thành thói quen, nếp sống của nhân dân; các thói quen xấu gây ô nhiễm môi trường, làm ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, như vứt rác, chất thải, xác súc vật bừa bãi ở nơi công cộng, nguồn nước, chưa được loại bỏ, thậm chí một số nơi còn phổ biến. Ý thức trách nhiệm về bảo vệ môi trường của một số nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh còn thấp, chưa chủ động, tự giác thực hiện, phần lớn vẫn chạy theo lợi nhuận, coi nhẹ bảo vệ môi trường.

Nhận thức, hiểu biết đầy đủ trong xã hội, đặc biệt là của các cấp ủy, chính quyền về tăng trưởng xanh, phát triển nền kinh tế xanh như là một phương thức để phát triển bền vững, vẫn còn rất hạn chế.

Hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường tuy đã được hình thành về cơ bản nhưng vẫn còn nhiều bất cập, nhiều quy định còn chung chung, mới mang tính nguyên tắc. Còn thiếu hoặc đã có quy định nhưng chưa đầy đủ về bảo vệ môi trường đất, nước, không khí, về tái chế chất thải, về khắc phục ô nhiễm, cải tạo, phục hồi môi trường, về tiêu dùng bền vững. Chưa có cơ sở pháp lý về quy hoạch môi trường, phân vùng chức năng sinh thái làm căn cứ để hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, lập quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng.

Chưa tạo ra hành lang pháp lý và môi trường thuận lợi để khuyến khích phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ môi trường và sản phẩm thân thiện với môi trường. Thiếu các cơ chế về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra, giải quyết tranh chấp, xung đột về môi trường. Mặc dù đã có các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hình sự nhưng chưa đầy đủ và cụ thể nên khó thực hiện trên thực tế. Nhiều quy định về xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc, thiếu cơ chế phù hợp để thực hiện nên chưa phát huy được hiệu quả.

Cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường chậm đổi mới, chưa đồng bộ với thể chế thị trường. Các loại thuế, phí về môi trường mới chỉ bước đầu tạo nguồn thu cho ngân sách mà chưa phát huy được vai trò công cụ kinh tế điều tiết vĩ mô, hạn chế gây ô nhiễm môi trường, thúc đẩy các hoạt động kinh tế - xã hội theo hướng hài hòa với thiên nhiên, thân thiện với môi trường và phát triển bền vững.

Bộ máy quản lý nhà nước về môi trường dù đã được kiện toàn nhiều lần nhưng vẫn chưa đồng bộ và thống nhất từ Trung ương đến địa phương, chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao, chưa giải quyết hiệu quả các vấn đề liên ngành, liên vùng, xuyên quốc gia, chưa ngang tầm với yêu cầu bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Việc phân công nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường còn phân tán, chồng chéo và chưa hợp lý, nhất là trong quản lý chất thải và đa dạng sinh học.

Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, chưa theo kịp các yêu cầu mới đặt ra, nhất là ở các địa phương, cơ sở, còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực(2).

Đầu tư, chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước, huy động các nguồn lực trong xã hội còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu; sử dụng nguồn lực tài chính dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm nên hiệu quả thấp.

Chi thường xuyên cho sự nghiệp môi trường đã đạt 1% tổng chi ngân sách nhà nước hằng năm, nhưng còn dàn trải. Tại một số địa phương việc sử dụng nguồn chi thường xuyên cho sự nghiệp môi trường chưa đúng mục đích, chưa hiệu quả. Tỷ lệ đầu tư trở lại cho bảo vệ môi trường từ các nguồn thu liên quan đến môi trường còn thấp.

Nguồn vốn ODA cho bảo vệ môi trường còn thấp, phân tán và đang có xu hướng giảm dần. “Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả chi phí xử lý, khắc phục, cải tạo môi trường”, “người hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường phải trả tiền” chưa được áp dụng triệt để, mức chi chưa đúng, chưa đủ.

Năng lực thực hiện các cam kết, điều ước quốc tế về môi trường còn hạn chế. Chưa chủ động hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua các rào cản kỹ thuật về môi trường để hội nhập kinh tế quốc tế.

Ô nhiễm môi trường nhiều nơi đang có nguy cơ vượt ngưỡng chịu đựng của các hệ sinh thái, ảnh hưởng đến nhiều mặt đời sống kinh tế - xã hội, điều kiện sống và sức khỏe của nhân dân. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường gia tăng nhanh về số lượng, quy mô và mức độ tác động xấu lên môi trường, làm cho môi trường đất, nước, không khí nhiều nơi bị ô nhiễm, có nơi đã đến mức nghiêm trọng. Cho đến nay, tiến độ xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chưa đạt mục tiêu đề ra. Tỷ lệ các dự án đầu tư được kiểm tra, xác nhận tuân thủ báo cáo đánh giá tác động môi trường trước khi cho phép vận hành còn thấp. Hoạt động sản xuất sạch hơn, kiểm toán chất thải mới chỉ bắt đầu được thực hiện.

Ô nhiễm ở các làng nghề tồn tại từ rất lâu nhưng chưa có biện pháp khắc phục và giải quyết hiệu quả. Một số kết quả đạt được còn mang tính cục bộ, thiếu bền vững và chưa được nhân rộng. Nhìn chung, ô nhiễm làng nghề đã và vẫn là nghiêm trọng, gây nhiều bức xúc trong xã hội.

Quản lý chất thải rắn còn nhiều hạn chế. Hầu hết chất thải rắn sinh hoạt ở đô thị và nông thôn chưa được phân loại tại nguồn. Vẫn còn trên 60% số xã ở khu vực nông thôn trên cả nước chưa tổ chức thu gom rác thải. Hoạt động tái chế còn manh mún, chưa có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, đang phát triển tự phát ở các làng nghề, với công nghệ thủ công, lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Chất thải rắn vẫn chủ yếu được xử lý bằng chôn lấp, trong khi đó có hơn 80% các bãi chôn lấp không bảo đảm yêu cầu kỹ thuật, vệ sinh môi trường. Chất thải nguy hại chưa được quản lý tốt, thiếu công nghệ, thiết bị nên xử lý kém hiệu quả, tiêu hủy chưa an toàn. Nhiều loại chất thải công nghiệp, hóa chất nguy hại, bao bì thuốc bảo vệ thực vật tồn lưu, chất thải y tế nguy hại chưa được xử lý hoặc xử lý chưa đạt yêu cầu. Việc nhập khẩu các công nghệ cũ, rác thải dưới nhiều hình thức vẫn chưa được kiểm soát, ngăn chặn triệt để.

Hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường còn lạc hậu, yếu, không đồng bộ. Hầu hết các đô thị trên cả nước và khoảng hơn 35% khu công nghiệp, khu chế xuất chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung hoặc có nhưng không đáp ứng yêu cầu. Hiện nay, trên 60% trong số 1 triệu m3 nước thải/ngày/đêm từ các khu công nghiệp xả thẳng ra các nguồn tiếp nhận, không qua xử lý, gây ô nhiễm môi trường trên diện rộng ở nhiều nơi. Những khu vực chịu tác động lớn nhất là các lưu vực sông Cầu, Nhuệ - Đáy, Đồng Nai và các ao, hồ tại các đô thị.

Giải pháp chủ yếu tăng cường quản lý nhà nước bảo vệ môi trường

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, hình thành ý thức tự giác bảo vệ môi trường trong nhân dân

Phát huy vai trò, làm rõ trách nhiệm của các ngành, các cấp ủy đảng, chính quyền về xây dựng năng lực quản lý, giải quyết các vấn đề môi trường, khắc phục tình trạng tổ chức thực hiện thiếu quyết liệt, mang tính hình thức, tư duy coi nặng tăng trưởng kinh tế, bỏ qua hoặc buông lỏng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.

Đưa bảo vệ môi trường vào nội dung sinh hoạt thường xuyên của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể xã hội; chương trình giáo dục cho học sinh, sinh viên trong nhà trường; trong chương trình hằng ngày của các phương tiện truyền thông đại chúng; đưa yêu cầu về bảo vệ môi trường vào công tác thi đua, khen thưởng, đánh giá tổ chức, cá nhân; đưa việc bảo vệ môi trường vào hương ước của bản làng, khế ước của các dòng họ, nội quy của cơ quan, đơn vị, tổ chức đoàn thể, xã hội.

Đổi mới, bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường và tăng cường thanh kiểm tra, giám sát việc thực hiện

Tiến hành rà soát một cách toàn diện hệ thống chính sách, pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, bổ sung, hoàn thiện theo hướng hình thành môi trường chính sách, pháp luật đồng bộ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội hài hòa với thiên nhiên, thân thiện với môi trường, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Tiến hành rà soát tổng thể hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, bổ sung, hoàn thiện theo hướng đồng bộ, phù hợp với chủ trương tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hoàn thiện thể chế và phát triển nguồn nhân lực.

Rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường và các luật có liên quan theo hướng quy định rõ về nguyên tắc, chính sách của Nhà nước, nội dung, công cụ, cơ chế, quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chí đánh giá, trách nhiệm bảo vệ môi trường phù hợp với bối cảnh biến đổi khí hậu, chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Nghiên cứu xây dựng Bộ luật Môi trường theo hướng thống nhất công tác bảo vệ các thành phần môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Nghiên cứu xây dựng Luật Giảm thiểu, tái chế và tái sử dụng chất thải; Luật Không khí sạch; Luật Phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường, các hệ sinh thái tự nhiên; xây dựng hệ thống pháp luật, quy trình, quy chuẩn, hướng dẫn thực hiện phân vùng chức năng sinh thái. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm về môi trường, tăng cường thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường.

Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ và hiệu quả với lực lượng cảnh sát môi trường trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Phối hợp Bộ Tư pháp, Tòa án nhân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hình sự nhằm nhanh chóng đưa các quy định này đi vào cuộc sống.

Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường; có chính sách thúc đẩy sự tham gia và phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp.

Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chuyên trách về bảo vệ môi trường

Nghiên cứu, thí điểm phương án hệ thống tổ chức bộ máy quản lý môi trường theo ngành dọc.

Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về môi trường, bảo đảm đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, ngang tầm với yêu cầu bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế; khắc phục tình trạng phân công, phân cấp chưa hợp lý hiện nay.

Tăng cường huy động nguồn lực tài chính cho công tác bảo vệ môi trường

Tăng đầu tư và chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước cho công tác bảo vệ môi trường. Tăng dần mức chi sự nghiệp môi trường từ 1% lên 2% tổng chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2015 - 2020./.

----------------------------------------------------

(1) Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy, trong giai đoạn đang phát triển như Việt Nam khi GDP tăng lên gấp đôi, ô nhiễm môi trường có thể tăng lên từ 3 - 5 lần. Đối chiếu với những nhận định trên đây, giai đoạn đổi mới, mở cửa của nước ta với GDP năm 2011 tăng gần 4,5 lần so với năm 1990 thì ô nhiễm môi trường có thể tăng lên từ 15 đến 23 lần. Tuy nhiên, trên thực tế, ô nhiễm môi trường ở Việt Nam có tăng nhưng ở mức thấp hơn.

(2) Số cán bộ quản lý nhà nước về môi trường trên 1 triệu dân: Trung Quốc: 40 người, Thái Lan: 42 người, Cam-pu-chia: 55 người; Ma-lai-xi-a: 100 người, Singapore: 350 người, Ca-na-đa: 155 người, Anh: 204 người. Trong khi đó, Việt Nam là 29 người.