TCCSĐT - Trong 5 năm đầu của nền Dân chủ cộng hòa, nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến trong tình thế hầu như bị tách biệt với bên ngoài. Chúng ta cũng chưa có một nguồn viện trợ quốc tế nào cho cuộc kháng chiến. Từ sau thắng lợi của Chiến dịch Biên giới 1950, Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã công nhận chính thức nền độc lập của Việt Nam. Sự kiện đó đã nâng cao uy tín và vị thế quốc tế của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, trở thành một trong những nguồn động lực chính trị - tinh thần to lớn đối với nhân dân và quân đội ta.

Trong Chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954 và đặc biệt là Chiến dịch Điện Biên Phủ, sự ủng hộ, đoàn kết, giúp đỡ của quốc tế đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta diễn ra trên nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự; với nhiều hình thức, nội dung, quy mô rất đa dạng, phong phú và hiệu quả.

Tại Pháp, hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Pháp, các tổ chức chính trị - xã hội trên toàn nước Pháp đã liên tiếp tổ chức nhiều hoạt động với quy mô lớn để phản đối “cuộc chiến tranh bẩn thỉu” mà giới cầm quyền hiếu chiến ở Pháp đang thực thi trên bán đảo Đông Dương. Điển hình là Tổng Liên đoàn lao động Pháp đã phát động chiến dịch rất rầm rộ trên toàn quốc không sản xuất vũ khí, phương tiện chiến tranh, chống bắt lính đưa sang tham chiến ở Đông Dương. Đặc biệt, Phong trào nhân dân Pháp đã lôi cuốn được đông đảo các tầng lớp nhân dân tập hợp vào mặt trận chống chiến tranh xâm lược do nhà cầm quyền Pháp tiến hành; đồng thời, phát động cuộc tuần hành với hơn 30 nghìn người tham gia tại Trường đua Mùa Đông. Phong trào phản chiến dâng cao mạnh mẽ chưa từng thấy trong lịch sử nước Pháp, đã tạo nên sức ép chính trị rất lớn, kiên quyết đòi Chính phủ Pháp phải rút ngay quân đội viễn chinh và lính đánh thuê ra khỏi Đông Dương.

Có rất nhiều tấm gương tiêu biểu với những hành động phản đối chiến tranh, ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam đã gây chấn động nước Pháp và lan tỏa nhanh chóng ra nhiều nước trên thế giới như: chị Ray-mông Điêng nằm ngang đường ray ở nhà ga Tua để chặn đoàn xe lửa chở vũ khí, trang bị chiến tranh đưa sang Việt Nam; anh Hăng-ri Mác-tanh, người từng có mặt tại chiến trường Đông Dương và sau khi trở về nước Pháp đã dũng cảm đứng lên tổ chức nhiều diễn đàn tố cáo tội ác dã man, tàn bạo của thực dân Pháp tại Việt Nam, kêu gọi hàng ngũ thủy binh, công nhân phản chiến, đình công...

Tại nhiều nước thuộc địa của Pháp ở châu Phi như An-giê-ri, Ma-rốc, Tuy-ni-di, Ma-đa-gát-xca..., những người lao động đã tích cực ủng hộ và chi viện cho cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta bằng nhiều hình thức. Công nhân các bến cảng ở Bắc Phi tổ chức đình công không chuyển vũ khí xuống tàu sang Việt Nam. Các nước Thái Lan, Ấn Độ, Nam Dương, Mi-an-ma và một số nước tư bản như Tây Đức, Ô-xtrây-li-a, Áo... đã dấy lên mạnh mẽ phong trào ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa và rất anh dũng của nhân dân Việt Nam. Nhiều tổ chức quốc tế như Công đoàn thế giới, Đại hội đồng hòa bình thế giới... đã ra nghị quyết cực lực lên án thực dân Pháp xâm lược và đòi chấm dứt ngay cuộc chiến tranh bẩn thỉu, lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Với đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, tự lực, tự cưòng, chủ động và sáng tạo, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã xác định đúng đắn chủ trương “đoàn kết quốc tế, thêm bạn bớt thù”, tăng cường đoàn kết với Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa khác và các nước dân chủ. Đồng thời, phát triển mối quan hệ đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân và các lực lượng vũ trang của nước hai nước bạn Lào và Cam-pu-chia trên tinh thần quốc tế cao cả “giúp bạn là tự giúp mình”. Từ đó, đã nhanh chóng hình thành một thế trận vững chắc của ba nước Đông Dương nhằm đánh thắng kẻ thù chung là thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ.

Trong Chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954, nhất là trong suốt Chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ rất quý báu của bạn bè quốc tế cả về vật chất và tinh thần, cả về lực lượng cố vấn, đào tạo - huấn luyện cán bộ và trao đổi kinh nghiệm chiến đấu. Theo số liệu thống kê, “từ tháng 5-1950 đến tháng 6-1954, Việt Nam đã nhận được 21.517 tấn hàng viện trợ, gồm súng, đạn, lương thực, phương tiện vận tải, hàng quân y, quân trang... với tổng trị giá 37 triệu rúp từ Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác”(1). Sự giúp đỡ tích cực đó đã tạo nên hậu phương lớn về tinh thần, góp phần quan trọng phá ưu thế trên không của địch, cô lập cao độ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, làm cho kẻ địch luôn phải lâm vào thế bị động, lúng túng đối phó trước các đợt tấn công dũng mãnh của những đơn vị chủ lực quân đội ta.

Từ sức mạnh dân tộc và nhờ sự ủng hộ, đồng tình, sự đoàn kết, giúp đỡ hiệu quả về nhiều mặt của quốc tế mà sức mạnh chính trị - tinh thần của nhân dân và quân đội ta được phát huy cao độ, được thể hiện bằng ý chí, quyết tâm: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.

Thắng lợi của Chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ đã chứng minh đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, lợi ích dân tộc với nghĩa vụ quốc tế, trên tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Với sự nhạy cảm về chính trị, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo đưa cuộc kháng chiến chính nghĩa chống xâm lược của dân tộc hòa nhập, quyện chặt với cuộc đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Đường lối đúng đắn đó phù hợp với trào lưu phát triển chung của thời đại. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc ta đã thực sự trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, góp phần quan trọng làm suy yếu và làm tan rã từng mảng chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới. Vì vậy, trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ thắng lợi đã có ý nghĩa và tầm vóc thời đại rất to lớn và sâu sắc. Nhân dân các dân tộc bị áp bức cùng nhân dân tiến bộ yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới, kể cả các tầng lớp nhân dân Pháp đã coi thắng lợi Chiến dịch Điện Biên Phủ của nhân dân Việt Nam như thắng lợi của chính mình.

Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra trong bối cảnh cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới có sự phát triển mới về lực lượng. Để tiếp nhận được điều kiện thuận lợi đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giành thắng lợi từng bước trong tác chiến quân sự. Đồng thời, tích cực đẩy mạnh hoạt động ngoại giao để tăng cường sự hiểu biết, đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân thế giới đối với cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam; qua đó, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu anh em, vạch rõ bản chất chiến tranh phi nghĩa của thực dân Pháp và âm mưu xảo quyệt của Mỹ ở Đông Dương. Đối với nhân dân và quân đội ta, công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, nêu cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc và mục đích, ý nghĩa lịch sử của Chiến dịch Điện Biên Phủ được hết sức coi trọng. Việc tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế và thực hiện liên minh với các nước anh em là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác chính trị, và được tiến hành rất có hiệu quả trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Từ đó, chúng ta đã tiếp nhận, sử dụng có hiệu quả sự ủng hộ về vật chất, tinh thần, vũ khí, trang bị kỹ thuật và nhanh chóng tiếp thụ kinh nghiệm chiến đấu của các nước anh em. Đó là những nhân tố quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh chính trị - tinh thần của nhân dân và quân đội ta trong Chiến dịch Điện Biên Phủ; đồng thời, đó là chỗ yếu chí mạng về chính trị, tinh thần của kẻ xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ.

Đánh giá tầm vóc và ý nghĩa vĩ đại của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”(2).

Đã 55 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ trôi qua, nhưng những bài học kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh về tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình, đoàn kết, giúp đỡ của quốc tế một cách rộng rãi vẫn còn nguyên giá trị đối với việc xây dựng, động viên và phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần của toàn dân tộc vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đó là bài học kinh nghiệm: Trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào của cách mạng, cũng phải thực hiện nhất quán đường lối, quan điểm của Đảng ta vềđoàn kết quốc tế, thêm bạn bớt thù”, “giúp bạn là tự giúp mình. Phải luôn kiên trì, tích cực, chủ động, thực hiện đa dạng hóa hình thức, biện pháp tuyên truyền, thuyết phục để nhân dân các nước hiểu rõ tính chất chính nghĩa cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân dân ta.

Thực tiễn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược cho thấy, để có một trận Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn kiên trì công tác tuyên truyền, kết hợp với các hoạt động ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt nhằm làm cho nhân dân các nước, kể cả hàng ngũ địch, hiểu rõ về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Đồng thời, vạch trần bản chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc cùng những chính sách nô dịch tàn bạo của chúng. Một minh chứng là, ở thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nước ta chưa được nhiều quốc gia, dân tộc và tổ chức quốc tế hiểu rõ, thông cảm và ủng hộ. Trong khi đó, kẻ xâm lược cùng can thiệp Mỹ tìm mọi thủ đoạn xảo quyệt, nham hiểm nhằm bao vây, phong tỏa, cô lập Việt Nam với các nước và các tổ chức quốc tế. Chính vì vậy, cuộc kháng chiến của chúng ta gặp nhiều khó khăn, trở ngại; và qua đó, chúng ta nhận thấy, phải nhanh chóng khai thông được quan hệ với các nước. Tất nhiên, điều có tính chất quyết định để có sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế là, quân và dân ta phải nỗ lực đánh thắng kẻ địch trên chiến trường.

Một bài học kinh nghiệm khác là: luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và lòng tự tôn dân tộc; đồng thời, ra sức tranh thủ mọi khả năng mở rộng quan hệ đoàn kết, hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế. Đây chính là cơ sở chính trị, tư tưởng để xây dựng, bồi dưỡng tinh thần yêu nước chân chính kết hợp với tinh thần quốc tế vô sản cao cả trong nhân dân và quân đội ta.

Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và lòng tự tôn dân tộc là nhân tố có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Song, sự giúp đỡ và hợp tác của bạn bè quốc tế là điều kiện rất quan trọng tác động tích cực đến nâng cao tinh thần tích cực, chủ động, sáng tạo của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ chính là sự biểu hiện rất sinh động của tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và niềm tự hào, lòng tự tôn dân tộc của quân đội và nhân dân ta, được kết hợp một cách biện chứng với ra sức tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình, sự đoàn kết, giúp đỡ của quốc tế. Chính sự nỗ lực chủ quan của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã tạo nên điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm tác chiến và sử dụng đạt hiệu quả cao nhất sự giúp đỡ quý báu về vũ khí, trang bị kỹ thuật của các nước bạn. Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và niềm tự hào, lòng tôn dân tộc, nhưng tất yếu phải tăng cường đoàn kết, liên minh rộng rãi với bên ngoài, nếu không cách mạng nước ta sẽ bị cô lập, nền độc lập của dân tộc sẽ bị uy hiếp, đe dọa. Mặt khác, tăng cường đoàn kết, liên minh rộng rãi với bên ngoài nhưng phải luôn luôn giữ vững độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường thì sự đoàn kết, liên minh đó mới bền vững, trong sáng.

Những bài học kinh nghiệm đó cũng là cơ sở để Đảng ta tiếp tục xây dựng, động viên và phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần của nhân dân và quân đội ta trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chống đế quốc Mỹ xâm lược, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ mới.

*      *

*

Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh thế giới có những biến chuyển sâu sắc và chứa đựng nhiều yếu tố rất khó lường. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định việc tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế theo phương châm “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”. Để đảm bảo thực hiện đúng đường lối đối ngoại mà Đảng đã đề ra, một trong những vấn đề cốt yếu là cần phải tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình của đất nước trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Vì vậy, việc tăng cường đoàn kết, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng và cấp thiết đối với cách mạng nước ta hiện nay.

Trên cơ sở quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại của Đảng ta trong tình hình mới, cần nỗ lực và đẩy mạnh các hoạt động tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình, đoàn kết, giúp đỡ của quốc tế đối với công cuộc đổi mới của đất nước với định hướng tư duy đổi mới, phát triển, nhân văn, tiến bộ xã hội và đề cao sự tương đồng, hòa nhập. Bởi vì, nhìn lại thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nước ta từng bị chủ nghĩa đế quốc phong tỏa, song để từng bước khai thông quan hệ quốc tế, vấn đề cốt yếu là chúng ta đã làm cho nhân dân thế giới thấy rõ được tính chất chính nghĩa, nhân văn, nhân đạo, tiến bộ xã hội cũng như sự tương đồng, hòa hợp quốc tế của công cuộc kiến thiết và bảo vệ đất nước, trong bối cảnh phong trào đấu tranh đòi độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội bắt đầu dâng cao.

Bước vào thời kỳ mới, uy tín và vị thế của Việt Nam với quốc tế đã được khẳng định và ngày càng nâng cao. Đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước, thuộc tất cả các châu lục, trong đó với cả 5 nước là Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; có quan hệ thương mại với các trung tâm kinh tế lớn của thế giới cũng như với hơn 220 quốc gia và vùng lãnh thổ; đồng thời là thành viên của hàng trăm tổ chức quốc tế... Thực tế những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn giữ vững và phát triển ngày càng có chiều sâu các mối quan hệ với các nước và các tổ chức quốc tế.

Những thành tựu đối ngoại đó có nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là: chính trị ổn định, kinh tế ngày càng phát triển; môi trường hòa bình đất nước được giữ vững... Vì thế, có thể khẳng định, bài học kinh nghiệm về tăng cường sự ủng hộ, đồng tình, đoàn kết, giúp đỡ của quốc tế trong các kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo, linh hoạt, phát huy cao độ, trở thành một nhân tố rất quan trọng tăng cường sức mạnh quốc gia để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở thời kỳ mới.

Để tiếp tục vận dụng và phát huy bài học kinh nghiệm đó vào đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mỗi chúng ta cần phải nắm vững quan điểm của Đảng ta về đối tượng, đối tác; thực hiện tốt phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, chủ động vừa hợp tác, vừa đấu tranh, phát huy các điểm tương đồng, thu hẹp bất đồng; tích cực mở rộng đối tác, thu hẹp đối tượng, thực hiện “thêm bạn, bớt thù”, nhằm mục đích góp phần tạo lập môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác thân thiện giữa các quốc gia, dân tộc; khai thác có hiệu quả các yếu tố, các điều kiện có lợi từ các mối quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước và các tổ chức quốc tế để phục vụ hữu hiệu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.


(1) Hồ Tố Lương: Chiến thắng Điện Biên Phủ và sự giúp đỡ của Liên Xô, Báo Lao động, ngày 13-4-2004, tr 5

 (2) Hồ Chí Minh: Toàn tp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t 10, tr 12