Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 2)
TCCS - Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhận thức lý luận của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được bổ sung, hoàn thiện và phát triển. Tuy nhiên, trước các thách thức, yêu cầu mới, đang đặt ra những vấn đề lý luận cần tiếp tục được nghiên cứu nhằm góp phần hoàn thiện đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng trong bối cảnh hiện nay.
Một số yếu tố, nguyên tắc tác động đến nghiên cứu lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian tới
Những vấn đề mang tính nguyên tắc khi nghiên cứu lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Một là, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hai là, nhận thức đầy đủ và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn mới.
Ba là, bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó nhấn mạnh tới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, lành mạnh hóa thị trường, coi đây là một nội dung quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội mới.
Bốn là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Một trong những bài học lớn rút ra trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới là việc giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường.
Năm là, nhất quán, kiên trì phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế. Đây là phương tiện để xây dựng đất nước trong bối cảnh mới nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Bối cảnh quốc tế và trong nước
Bước vào thế kỷ XXI, mặc dù hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng các vấn đề an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống diễn biến ngày càng phức tạp. Ở phạm vi khu vực, trong thời gian gần đây, vai trò, sức mạnh và ảnh hưởng của khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang ngày càng tăng khi các nền kinh tế trong khu vực có sự phục hồi và phát triển tích cực mặc dù chịu tác động của đại dịch COVID-19. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là trung tâm phát triển năng động của thế giới, giữ vị trí chiến lược quan trọng đồng thời là khu vực trọng điểm cạnh tranh của các nước lớn. Ở phạm vi toàn cầu, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin... là các vấn đề mang tính toàn cầu nổi lên và đây là các nhân tố tích cực thúc đẩy tiến bộ của thời đại, nhưng cũng đặt ra không ít thách thức, khó khăn. Đặc biệt, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiếp tục phát triển mạnh mẽ, mở ra một thời đại mới về phát triển lực lượng sản xuất, dẫn tới sự thay đổi lớn trên mọi phương diện của đời sống chính trị - xã hội của các nước.
Ở trong nước, mô hình tăng trưởng chưa dựa vững trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; tính tự chủ của nền kinh tế còn thấp; vẫn còn phụ thuộc lớn vào bên ngoài; chưa quan tâm đúng mức đến chuỗi giá trị và cung ứng trong nước... nhằm nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thêm vào đó, Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Vì vậy, để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững, cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, phát triển
Lý luận và thực tiễn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới nói riêng. Những thành tựu lý luận về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã giúp nền kinh tế nước ta từ nước nghèo, lạc hậu trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp; quy mô nền kinh tế ngày càng mở rộng, thu nhập bình quân đầu người (GDP)/người và thu nhập quốc dân (GNI)/người tăng liên tục trong nhiều năm qua, tiệm cận gần tới mức của nhóm nước có thu nhập trung bình cao; cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng đóng góp của ngành công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và giảm tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp trên tổng lao động xã hội... Việt Nam đã vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình với thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 4.300 USD năm 2023, tăng gần 60 lần so với năm 1986. Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt trên 6,5%/năm, thuộc nhóm các nước có mức tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Quy mô nền kinh tế đạt khoảng 430 tỷ USD năm 2023, đứng thứ 35 thế giới, tăng hơn 95 lần so với năm 1986. Nền tảng kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm(1). Tuy nhiên, bối cảnh mới cũng đặt ra yêu cầu mới. Lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển và sự vận động nhanh chóng của thực tiễn.
Có thể nói, qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, với những dấu ấn nổi bật, từ có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác, rồi phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đến phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác... Đây là một bước tiến dài trong nhận thức và lý luận. Nền kinh tế Việt Nam được cấu thành bởi hai thành tố là kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai thành tố này một là có tính phổ biến (kinh tế thị trường), hai là có tính đặc thù (định hướng xã hội chủ nghĩa), vì vậy cần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phổ biến và đặc thù trong quá trình quản lý nền kinh tế. Nếu chỉ đơn thuần kết hợp một cách hữu cơ hai thành tố này thì vô hình trung sẽ dẫn tới việc trong quá trình triển khai thực hiện sẽ có lúc coi nhẹ cái này và đặt nặng cái kia.
Kinh tế thị trường là kết quả của quá trình phát triển sản xuất hàng hóa và phân công lao động của nhân loại. Tính tất yếu của sự phát triển kinh tế thị trường sẽ còn hiện hữu khi vẫn còn có sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất khác nhau. Trên thực tế, nền kinh tế thị trường vận hành dựa trên các quy luật, như quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ... Khi vận hành nền kinh tế thị trường cần tuân theo các quy luật khách quan. Tuy nhiên, sự tác động của các quy luật khách quan của kinh tế thị trường có tác động và mức độ tác động tới đâu lên nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng chưa được làm rõ. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong vận dụng đúng đắn quy luật khách quan của kinh tế thị trường, nhưng vẫn bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện của Việt Nam.
Tại Đại hội IX của Đảng, lần đầu tiên nội dung tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường chính thức được luận giải một cách khái quát và từng bước được cụ thể hóa. Vấn đề đặt ra là: 1- Nền kinh tế Việt Nam không phải tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng chưa phải xã hội chủ nghĩa mà mới đang “định hướng xã hội chủ nghĩa”. 2- Tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường bị chi phối bởi định hướng chính trị và định hướng phát triển đất nước. Cách tiếp cận này đòi hỏi tách bạch giữa mục tiêu và phương tiện thực hiện mục tiêu. Trong đó, việc kiên định định hướng chính trị là nguyên tắc bất biến. Còn phương tiện thực hiện mục tiêu lại phải căn cứ trên thực tiễn và hiệu quả thực hiện mục tiêu. Muốn vậy, phải bám sát và luận giải các mối quan hệ lớn cần giải quyết trong quá trình phát triển - các vấn đề phản ánh tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, cần luận giải được các mối quan hệ trọng tâm cần tập trung giải quyết gắn với từng giai đoạn cụ thể, trên cơ sở đó tập trung nguồn lực, điều hành quản lý đi vào đúng trọng tâm, trọng điểm.
Về sở hữu, thành phần kinh tế và doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khoa học - công nghệ phát triển nhanh chóng tác động mạnh mẽ tới sự biến đổi của mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Thành tựu khoa học - công nghệ (lực lượng sản xuất) buộc các nước phải thông qua thể chế kinh tế nhằm điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp. Là quốc gia đi sau, Việt Nam không chỉ chịu tác động từ các quy định của các thể chế kinh tế của các quốc gia khác, mà chúng ta còn chịu sự tác động từ các quy định của các thiết chế kinh tế khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, quá trình phân công lao động cũng phát triển theo xu hướng chuỗi giá trị toàn cầu khi một loạt dịch vụ thanh toán điện tử, kinh tế chia sẻ, kinh tế số... ra đời. Khi đó, mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất sẽ không chỉ trong phạm vi không gian thực, chế định bởi lãnh thổ quốc gia, mà nó sẽ dịch chuyển sang không gian ảo, xã hội ảo. “Chúng ta đang đứng trước yêu cầu có một cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển. Đó là cuộc cách mạng chuyển đổi số, ứng dụng khoa học - công nghệ nhằm tái cấu trúc quan hệ sản xuất phù hợp với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuất. Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại”(2).
Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, chúng ta đã nỗ lực đổi mới tư duy kinh tế, điều chỉnh các mặt cấu thành quan hệ sản xuất, đặc biệt là các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế cho phù hợp nhằm giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường, trong đó tư duy về sở hữu (từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường, từ đơn sở hữu sang đa sở hữu) từng bước được đổi mới. Việc chuyển đổi thành công tư duy về sở hữu mà không đẩy nền kinh tế rơi vào suy thoái, rối loạn là thành tựu to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam, bởi thực tế trên thế giới không ít quốc gia đã rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng trong quá trình chuyển đổi tư duy phát triển này. Điều này một lần nữa khẳng định sự đúng đắn của Đảng ta. Tuy nhiên, trong bối cảnh khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay, việc giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất không thể dựa theo cách hiểu truyền thống trước đây. Với sự hình thành và phát triển của hàng loạt thành tựu công nghệ mới, như dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo thì cấu thành lực lượng sản xuất không thể chỉ đơn thuần đồng nhất coi dữ liệu lớn hay trí tuệ nhân tạo là tư liệu sản xuất. Rõ ràng, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo cũng là đối tượng lao động và là nền tảng cấu thành lực lượng sản xuất mới. Do đó, nếu chỉ hiểu theo cách truyền thống sẽ dẫn tới sự lạc hậu trong tư duy lý luận. Trên cơ sở nhận định tình hình mới, nhận thức về mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất không thể chỉ dừng lại ở lý luận chung, những quy luật và mối quan hệ biện chứng mà cần cụ thể hóa theo từng vấn đề, như mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất là gì? Cách thức phát triển các yếu tố cấu thành đó?; Những thành tố mới của lực lượng sản xuất hiện đại bao gồm những gì?; Hệ thống thể chế nào thúc đẩy quá trình phát triển lực lượng sản xuất?; Trong nhận thức về quan hệ sản xuất, chỉ tập trung vào quan hệ sở hữu liệu đã phù hợp chưa? Việc phân bổ nguồn lực, lưu thông và tổ chức quản lý theo điều kiện kinh tế thị trường cần được vận hành dựa trên xác lập các căn cứ nào?; Với sự đa dạng của các quan hệ thị trường, chủ thể thị trường, hội nhập kinh tế ở nhiều tầng bậc đan xen thì hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất cần dựa trên nguyên tắc nào?...
Trong mỗi mô hình kinh tế khác nhau, chức năng nhà nước khác nhau dẫn đến tính chất, quy mô, phạm vi của sở hữu nhà nước cũng khác nhau. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra cùng với đó là những thay đổi mang tính căn bản, buộc chúng ta có cách tiếp cận khác so với tư duy truyền thống. Nếu như trước đây, nhiều quốc gia từng coi tài nguyên thiên nhiên và nguồn vốn, những tài sản hữu hình là nguồn lực phát triển kinh tế thì điều đó đến nay đã trở nên lạc hậu trong phát triển, thậm chí bị tụt hậu. Bởi suy cho cùng, tài nguyên không phải là vô hạn, nguồn vốn nếu không được tái đầu tư dùng mãi rồi cũng sẽ cạn, nhưng với tri thức, trí tuệ, văn hóa... những tài sản vô hình này có giá trị vô cùng to lớn và cũng là lợi thế để tạo ra tài sản hình thành trong tương lai. Điều đặt ra ở đây là chúng ta quản lý và định giá tài sản vô hình như thế nào? Thị trường là môi trường kiểm nghiệm quan trọng nhất. Chẳng hạn như, muốn áp dụng cách tiếp cận từ thị trường, đòi hỏi có thị trường giao dịch và các thông tin của các tài sản vô hình và tài sản hình thành trong tương lai giao dịch trên thị trường, để làm tham chiếu cho tài sản vô hình và tài sản hình thành trong tương lai cần định giá. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa hình thành thị trường giao dịch tài sản vô hình và tài sản hình thành trong tương lai một cách hoàn chỉnh. Sự khác biệt lớn giữa tài sản vô hình, tài sản hữu hình, tài sản hình thành trong tương lai đặt ra cho các nhà nghiên cứu cách tiếp cận mới, nhận thức mới về sở hữu, cách thức bảo vệ quyền sở hữu trong bối cảnh hiện nay.
Bên cạnh đó, khi nghiên cứu về sở hữu, các nhà nghiên cứu thường nhấn mạnh về vai trò của sở hữu, nhưng lại không mấy khi đề cập rằng sở hữu tự thân không thể sinh ra của cải. Điều này đồng nghĩa với việc nắm giữ quyền sở hữu mà không làm cho quyền đó phát huy được giá trị nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu, đổi mới tư duy, thay vì nhấn mạnh việc nắm giữ cần chuyển trọng tâm sang làm sao phát huy nguồn lực đó hướng tới thúc đẩy sự tăng trưởng, phát triển chung.
Về mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế trong thực hiện vai trò, chức năng của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta mới dừng lại ở việc chỉ ra vai trò của từng thành phần kinh tế, nhưng lại chưa làm rõ vấn đề làm như thế nào để bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế? Chúng ta xác định chức năng của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân..., nhưng cách thức để các thành phần kinh tế phát huy hiệu quả lại chưa được cụ thể hóa? Về mối quan hệ biện chứng giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa các nghiên cứu mới chỉ dừng ở phương pháp luận, chưa được hệ thống hóa.
Về phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Về quan hệ phân phối, Đảng ta chủ trương áp dụng nhiều hình thức, trong đó phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác. Việc phân phối còn được thực hiện thông qua hệ thống phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Tiền lương, tiền công được coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, nếu gắn với điều kiện kinh tế thị trường thì cần có sự đổi mới tư duy trong cách xác định phân phối thu nhập hiện nay. Việc phân phối thu nhập cần căn cứ theo kết quả của quá trình lao động và sự đóng góp cho xã hội nhằm tránh việc: Một là, triệt tiêu động lực, năng suất lao động, gây ra sự trì trệ, ỷ lại; hai là, không tương thích với điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại.
Thời gian qua, chúng ta tập trung nhiều vào phân phối thu nhập mà chưa chú trọng đúng mức tới phân bổ nguồn lực. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, việc xác định mặt xã hội của sản xuất, bao gồm quan hệ sản xuất và quan hệ trao đổi, trong đó quan hệ trao đổi có thể hiểu chính là quan hệ thị trường. Vì vậy, sẽ là thiếu sót nếu không đi sâu nghiên cứu về phân bổ nguồn lực. Với xuất phát điểm là nước nông nghiệp lạc hậu, mặc dù thời gian qua, nền kinh tế nước ta đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, nhưng là một nước đi sau chúng ta không thể phân bổ nguồn lực để phát triển dàn trải mà cần nghiên cứu, lựa chọn đối tượng, cách thức phân bổ nguồn lực tương ứng với từng giai đoạn phát triển kết hợp với cụ thể hóa các đột phá chiến lược từ đó nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước.
Tiếp theo, trong bảo đảm công bằng xã hội, chúng ta luôn nỗ lực xây dựng mạng lưới an sinh xã hội, phúc lợi xã hội đa tầng nấc, không bỏ lại ai phía sau. Nhưng nếu tiếp cận theo góc độ coi an sinh xã hội, phúc lợi xã hội chỉ là phương thức cho việc thực hiện giảm bất bình đẳng thì điều này có nghĩa lấy đổi mới tư duy từ việc coi giảm bất bình đẳng làm mục đích sang tư duy lấy việc làm cho xã hội trở nên phồn vinh làm mục đích. Bởi bản thân quá trình thúc đẩy phồn vinh xã hội đã bao hàm yếu tố giảm bất bình đẳng, đồng thời nó thể hiện đích đến mà xã hội muốn hướng tới. Bên cạnh đó, khi thực hiện phân phối công bằng cũng tạo nội lực cho sự tăng trưởng. Nội lực ở đây được hiểu là sự ổn định chính trị, ổn định xã hội, trạng thái tinh thần khuyến khích lao động sáng tạo...
Về thể chế kinh tế, thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước được xác lập. Tuy nhiên, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập. Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp và chính sách trên một số lĩnh vực còn thấp. Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển. Thể chế phát triển, điều phối kinh tế vùng chưa được quan tâm và chậm được cụ thể hóa bằng pháp luật.
Về vai trò của Nhà nước trong thực hiện phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có thể thấy, Nhà nước và thị trường đều tham gia vào quá trình thực hiện phân phối, nhưng thị trường luôn thiên về cạnh tranh, đề cao lợi nhuận nên nếu phân phối thông qua thị trường sẽ chứa đựng nhiều yếu tố không công bằng, dẫn tới phân hóa giàu nghèo, hủy hoại môi trường... Chỉ có Nhà nước mới giải quyết được các khiếm khuyết này của thị trường thông qua các chính sách khác nhau. Tuy nhiên, cần luận giải rõ cách thức Nhà nước thực hiện phân phối lại và việc phân phối được thực hiện tới đâu để không làm “biến dạng” các động lực thị trường./.
---------------------------
(1) Phạm Minh Chính: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”, Báo Nhân dân điện tử, https://special.nhandan.vn/dat-nuoc-ta-chua-bao-gio-co-duoc-co-do-vi-the-va-uy-tin-quoc-te-nhu-ngay-nay/index.html
(2) Tô Lâm: “Chuyển đổi số - động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”, Tạp chí Cộng sản, số 1045 (9-2024), tr. 6
Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới  (12/11/2024)
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Thành phố Hồ Chí Minh qua gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng  (05/11/2024)
- Tự chủ chiến lược dưới tác động của các vấn đề an ninh phi truyền thống tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương
- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam ngày càng bền vững, tiến bộ, bản sắc, tương xứng với trình độ phát triển kinh tế - xã hội hiện nay theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
- Từ Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị trong tình hình mới
- Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đảng viên trong Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 2)
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay