Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
TCCS - Công cuộc đổi mới ở Việt Nam diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực mô hình Xô-viết sụp đổ, trật tự thế giới thay đổi bất lợi cho phong trào cách mạng vô sản thế giới. Mặc dù vậy, Đảng và nhân dân ta vẫn kiên định lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội, thể hiện qua việc Đảng ta luôn giữ vững nguyên tắc và mục tiêu trong quá trình đổi mới. Trải qua nhiều khó khăn, thách thức, bức tranh kinh tế nước ta dần khởi sắc, kinh tế tăng trưởng, chính trị ổn định, từ đó tạo thế và lực giúp Việt Nam tăng cường uy tín, mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trên thế giới. Thực tế đó là minh chứng cho tính đúng đắn của công cuộc đổi mới, mà trước hết là đổi mới nhận thức, tư duy lý luận.
Quá trình phát triển lý luận của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ năm 1986 đến nay
Quá trình phát triển nhận thức chung của Đảng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (tháng 9-1979) được xem là sự khởi đầu quá trình đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội đất nước với những chủ trương mới, là “những viên gạch đầu tiên” về phát triển kinh tế hàng hóa, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần..., thể hiện qua việc bỏ “ngăn sông, cấm chợ”, cho “sản xuất bung ra”, thừa nhận sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế(1). Tuy nhiên, phải đến Đại hội VI của Đảng (năm 1986), đường lối đổi mới mới chính thức hình thành. Trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đảng ta đã nêu rõ khuyết điểm trong lý luận về kinh tế và hoạch định, thực thi chính sách kinh tế, từ đó quyết tâm đổi mới tư duy về cách thức phát triển kinh tế. Vận dụng quan điểm của V.I. Lê-nin “coi nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”(2) Đảng ta nhận thức rõ sự cần thiết đổi mới cơ chế kinh tế theo hướng: 1- “Xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế”(3); 2- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, trước hết cơ cấu các ngành kinh tế phù hợp quy luật phát triển, trong đó ngoài thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, với khu vực quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, thừa nhận và tôn trọng sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế khác, bao gồm tiểu sản xuất hàng hóa, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước và kinh tế tự nhiên, tự túc, tự cấp. Những đổi mới tư duy này bước đầu đã đặt nền móng cho thay đổi nhận thức, tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, Đại hội VI là bước ngoặt quan trọng, đánh dấu sự tiến bộ trong nhận thức, tư duy lý luận của Đảng, đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ.
Trên cơ sở đổi mới tư duy, Đại hội VII của Đảng (năm 1991) chỉ rõ, “cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác”(4). Đại hội VII của Đảng cũng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991). Cương lĩnh năm 1991 đã định hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là một bước tiến lớn trong tư duy lý luận của Đảng ta.
Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đưa ra nhận định: “sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”(5). Trên cơ sở đó, dần định hình các thành tố cơ bản về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bao gồm xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhìn chung, từ Đại hội VI đến Đại hội VIII của Đảng, lý luận kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã có những bước phát triển nhất định, tuy nhiên chúng ta mới dừng lại ở nhận thức và vận dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý nền kinh tế thị trường là để sử dụng mặt tích cực của nó phục vụ mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội... Trong đó, thị trường mới được coi là một cơ chế để điều tiết nền kinh tế, nhưng chưa xác lập là một chỉnh thể, bao gồm cả cấu trúc nội tại lẫn thiết chế vận hành.
Diễn ra trong bối cảnh đất nước ta sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới và đạt được nhiều thành tựu quan trọng song nền kinh tế vẫn phải đối mặt với không ít khó khăn, như nạn tham nhũng, âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đưa ra nhận thức đột phá về bản chất của sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa - là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(6) . Lần đầu tiên Đảng ta chính thức xác định mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(7). Đây cũng là bước tiến lớn trong lý luận của Đảng khi chuyển từ nhận thức kinh tế thị trường là một công cụ, một cơ chế quản lý sang coi kinh tế thị trường là một chỉnh thể, cơ sở kinh tế cho sự phát triển của xã hội. Đảng ta cũng xác định rõ các đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bao gồm nền kinh tế nhiều thành phần, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa, thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Đại hội X của Đảng (năm 2006) thống nhất nhận thức kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại, đồng thời cũng khẳng định sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội(8). Đảng ta cũng nhấn mạnh cần tiếp tục bổ sung, cụ thể hóa thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó cần nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Về nội dung, cần tiến hành đồng thời trên cả ba mặt: Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước; phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh; phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh(9).
Đại hội XI của Đảng (năm 2011) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), xác định rõ: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”(10). Điểm nhấn mới trong đặc trưng về kinh tế của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Đại hội XI cũng thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, trong đó nhận diện và xác định đột phá ba khâu trọng yếu, đó là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng.
Đại hội XII của Đảng (năm 2016) tiếp tục hoàn thiện về nội hàm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở gắn kết từng cấu phần với mục tiêu và phương thức vận hành: “Nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh””(11). Đáng chú ý là ở Đại hội XII đã có bước nhận thức mới về: 1- Điều chỉnh quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa” thành “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong từng giai đoạn”; 2- Mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường” được phát triển thành mối quan hệ “giữa Nhà nước, thị trường và xã hội” và nhận thức về mối quan hệ này có những bước tiến quan trọng.
Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng tiếp tục khẳng định, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. “Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”(12). Đại hội XIII cũng tiếp tục nhận định việc ứng dụng các mô hình kinh tế mới (kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số...) là cần thiết nhằm hiện thực hóa mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh đó, tại đại hội này Đảng đã có bước phát triển nhận thức lý luận về xử lý mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội cùng với làm rõ hơn chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với nội dung, cơ chế, phương thức, công cụ can thiệp, điều tiết cụ thể.
Có thể thấy, trong quá trình gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không ngừng được bổ sung, phát triển và đạt được những thành tựu quan trọng. Đây là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh tư tưởng, kết tinh trí tuệ và công sức của toàn Đảng, toàn dân trong nhiều năm. Trên cơ sở đánh giá những bước phát triển trong nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Thứ nhất, Đại hội VI của Đảng đã khởi xướng đường lối đổi mới dựa trên tổng kết thực tiễn và đánh giá thành tựu, bài học kinh nghiệm của Việt Nam. Thực tiễn đổi mới một mặt cung cấp dữ kiện về hình thành và phát triển lý luận, tư duy mới; mặt khác, cũng phản ánh, soi chiếu lại tính đúng đắn của lý luận. Đại hội VI đánh dấu bước chuyển quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng và một trong những tư tưởng lớn bao trùm do Đại hội đề ra là tư tưởng giải phóng sức sản xuất, giải phóng ý thức, tinh thần và mọi tiềm năng của xã hội nhằm đem lại lợi ích kinh tế cho người lao động. Có thể xem đây là sự khởi đầu của bước chuyển từ tư duy kinh tế hiện vật, kế hoạch hóa, tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế hàng hóa, thị trường. Đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo tập trung giải quyết trước hết là nhiệm vụ đổi mới kinh tế và cùng với đó là đổi mới chính trị dựa trên tiền đề chung là đổi mới tư duy lý luận mà cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.
Thứ hai, từ thành tựu lý luận của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cho thấy, mô hình kinh tế này không phải là sự “gán ghép” chủ quan giữa “kinh tế thị trường” và “chủ nghĩa xã hội”, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. Đảng ta, trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển và sự đúc rút kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường của thế giới, thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội(13). Đảng ta cũng xác định rõ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa tuân theo nguyên tắc, quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính đặc trưng cơ bản này chi phối và quyết định phương tiện, động lực của nền kinh tế là sử dụng kinh tế thị trường để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, phát triển khoa học - kỹ thuật, mở cửa hội nhập, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ ba, nhận thức rằng kinh tế thị trường là thành quả quan trọng của sự phát triển văn minh nhân loại từ khi nó xuất hiện chứ không phải là “sản phẩm” riêng có của một hình thái kinh tế - xã hội nào cho thấy sự sáng suốt của Đảng ta trong tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận. Trước hết, nền kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế - xã hội mà ở đó các quan hệ kinh tế, như mua bán, trao đổi hàng hóa, phân chia lợi nhuận,... đều được thực hiện dựa trên các quy luật của thị trường điều tiết và chi phối. Tiếp theo, trong sản xuất, kinh doanh nếu nhà sản xuất không thu được lợi nhuận thì sẽ làm mất đi động lực để tiếp tục thực hiện dẫn tới sự trì trệ trong sản xuất, kinh doanh. Do đó, phát huy vai trò tích cực của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Việc nhận thức kinh tế thị trường là sản phẩm chung của văn minh nhân loại, là phương thức để xây dựng chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là cả một bước tiến dài trong nhận thức và lý luận. Cùng với đó, nội hàm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng ngày càng hoàn thiện, phát triển và đầy đủ hơn.
Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về sở hữu, thành phần kinh tế và doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (năm 1989), quan điểm đổi mới theo hướng xây dựng nền kinh tế có cơ cấu nhiều hình thức sở hữu được khẳng định. Đảng ta cũng khẳng định, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có tính quy luật, chiến lược lâu dài, trong đó có sự đan xen, liên kết giữa các loại hình sở hữu thành sở hữu hỗn hợp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều quan trọng đánh dấu bước thay đổi mang tính đột phá trong tư duy lý luận là quan điểm khẳng định hộ gia đình là đơn vị tự chủ, các hình thức kinh tế tư nhân được xem là cần thiết trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa đi lên xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn này, nhận thức của Đảng có bước tiến lớn, nhưng mới dừng lại ở quan điểm tạo điều kiện để các thành phần kinh tế phát triển còn việc hoàn thiện quan hệ sở hữu mới ở những bước đầu, các chủ thể và đối tượng sở hữu chưa được nhận thức thật sự rõ ràng.
Đại hội VII của Đảng (năm 1991), đánh dấu sự đột phá quan trọng trong lý luận về sở hữu khi Đảng khẳng định, phải có cơ chế, chính sách đúng đắn để giải quyết mối quan hệ giữa quyền sử dụng và quyền sở hữu. Nhận thức lý luận sở hữu này đã đặt tiền đề cho việc hình thành các hình thức tổ chức sản xuất đa sở hữu, đa thành phần, là cơ sở cho việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế tiếp theo, tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế tăng quy mô vốn, nguồn lực thông qua huy động vốn cổ phần trong xã hội. Cũng tại Đại hội này, Đảng chỉ ra phương hướng: “phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu”(14). Điều này cho thấy nhận thức của Đảng về đa sở hữu ngày càng được cụ thể hóa.
Đến Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta lần đầu tiên đưa ra phạm trù kinh tế nhà nước thay vì cách gọi kinh tế quốc doanh trước đó, với nội hàm rộng hơn, bao quát được toàn bộ hoạt động quản lý tài nguyên của đất nước;... nhờ đó đã giải quyết được vấn đề nhận thức thực tiễn cũng như lý luận về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Cũng tại đại hội này, nhận thức của Đảng về chế độ sở hữu, cơ chế quản lý và chế độ phân phối cần gắn kết với nhau nhằm phát huy các nguồn lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đại hội XI (năm 2011) đã có những khái quát mới về lý luận: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối”(15). Từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa chế độ sở hữu, hình thức sở hữu và loại hình kinh doanh. Mỗi chế độ sở hữu trong thực tiễn có thể có nhiều hình thức sở hữu mà ở đó sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và biểu hiện ra là các loại hình kinh doanh hiệu quả cao góp phần vào quá trình tăng trưởng kinh tế. Sự phát triển đa dạng của các hình thức sở hữu là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất càng đa dạng, trình độ xã hội càng phát triển, quan hệ sản xuất càng mở rộng thì tính đa dạng trong quan hệ sở hữu càng tăng lên. Đảng ta cũng phân định rõ “quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình”(16).
Tại Đại hội XII (năm 2016), Đảng ta đưa ra mục tiêu tổng quát: “Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”(17). Từ đó, đề ra nhiệm vụ cần tiếp tục hoàn thiện thể chế sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Đồng thời, tách bạch các chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước...
Như vậy, trong quá trình phát triển lý luận về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có thể thấy:
Thứ nhất, sự chuyển biến nhận thức từ giai đoạn phân chia các thành phần kinh tế thành hai loại là kinh tế xã hội chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa (trước đổi mới), đến thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần (trong đổi mới), và thừa nhận tất cả thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài. Trước đổi mới, Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa dường như đã tách quan hệ sở hữu với quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ phân phối; chưa phân biệt rõ hai nhóm quyền là quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh;... Đến đổi mới, nhận thức về sở hữu dần được sáng rõ hơn, trong đó quan hệ sở hữu quyết định quan hệ tổ chức, quản lý và quyết định quan hệ phân phối. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chưa cao, chưa đồng đều, thì việc tồn tại nhiều chế độ sở hữu là một tất yếu khách quan. Vì vậy, trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế nước ta tồn tại đồng thời cả chế độ sở hữu tư nhân (chế độ tư hữu), chế độ sở hữu xã hội (chế độ công hữu) và sở hữu hỗn hợp là một tất yếu kinh tế do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội quyết định. Thành tựu lý luận trong nhận thức về sở hữu đã tạo bước tiến quan trọng tạo nền tảng cho việc thúc đẩy sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai, về vai trò của sở hữu, Đảng ta nhận thức, sở hữu không phải mục tiêu, mục đích của xã hội xã hội chủ nghĩa, mà chỉ là phương tiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mỗi hình thức sở hữu đều thể hiện vai trò nhất định trong việc thúc đẩy quá trình huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xã hội.
Thứ ba, về sở hữu nhà nước, Đảng ta đã có bước đột phá trong nhận thức và lý luận khi khẳng định vai trò nòng cốt của sở hữu nhà nước không có nghĩa là coi phát triển sở hữu nhà nước là mục tiêu phát triển kinh tế. Sở hữu nhà nước chỉ hiện hữu ở những nơi cần thiết có vai trò hỗ trợ, dẫn dắt bảo đảm cho sự phát triển xã hội.
Thứ tư, từ xác định xu thế phát triển chung, Đảng ta chỉ ra đối tượng sở hữu những tài nguyên vô hình ngày càng chiếm vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế số. Ai sở hữu những tài nguyên vô hình càng nhiều càng có lợi thế trong cạnh tranh, vì khi sở hữu được tri thức, công nghệ hiện đại,... từ đó vận dụng vào trong quá trình sản xuất thì sẽ tạo ra hàng hóa chiếm ưu thế vượt trội trên thị trường. Điều này cũng đặt ra yêu cầu thúc đẩy phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo trở thành quốc sách hàng đầu.
Quá trình nhận thức của Đảng về phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trước tình hình khó khăn nghiêm trọng của nền kinh tế, trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết thực tiễn kết quả thử nghiệm từ các địa phương, Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã đưa ra quyết định mang tính lịch sử nhằm thực hiện công cuộc đổi mới, xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - thị trường, thực hiện sản xuất gắn với thị trường. Đây có thể nói là bước tiến lớn trong nhận thức của Đảng, quyết định sự thay đổi tích cực của cơ chế phân phối trong nền kinh tế.
Đại hội IX, sau khi chính thức xác định mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta cũng chỉ rõ chế độ phân phối của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thực hiện phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, dựa trên các nguyên tắc của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, từ chỗ coi Nhà nước là chủ thể quyết định phân phối chuyển dần sang xác định thị trường quyết định phân phối lần đầu và Nhà nước thực hiện phân phối lại.
Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa X (tháng 3-2008), Đảng ta khẳng định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là nền kinh tế có tổ chức, có kế hoạch, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phát huy ưu thế của kinh tế thị trường và kinh tế kế hoạch, vừa loại bỏ khuyết tật của hai nền kinh tế đó, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đại hội XI (năm 2011), Đảng chỉ rõ: “Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”(18). Từ nhận thức này có thể thấy tính bao quát, toàn diện trong các chính sách xã hội nhằm thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì mục tiêu là “định hướng xã hội chủ nghĩa”, còn công cụ để thực hiện là “cơ chế kinh tế thị trường”. Việc áp dụng cơ chế kinh tế thị trường được tiến hành ở cả các nước tư bản và xã hội chủ nghĩa, nhưng điểm khác nhau chính là mục tiêu mỗi thể chế xã hội đặt ra và hướng tới. Trong các văn kiện của Đảng, mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước”(19).
Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới có thể rút ra một số nhận xét về thành tựu trong nhận thức của Đảng về phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như sau:
Thứ nhất, nhận thức của Đảng về phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những bước tiến lớn. Nếu trước đổi mới chúng ta dùng công cụ kế hoạch hóa tập trung, mệnh lệnh hành chính để thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội thì sau khi tiến hành công cuộc đổi mới mà đặc biệt là sau khi xác định mô hình kinh tế tổng quát, chúng ta lấy cơ chế thị trường là công cụ để hiện thực hóa mục tiêu. Trong suốt quá trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam, định hướng xã hội chủ nghĩa không thay đổi, nhưng công cụ để thực hiện mục tiêu có sự điều chỉnh.
Thứ hai, về quan hệ phân phối, Đảng ta chủ trương áp dụng nhiều hình thức trong đó phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; đồng thời, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác. Việc phân phối còn được thực hiện thông qua hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Trước đây, Nhà nước được coi là chủ thể quyết định phân phối thì nay chuyển sang xác định thị trường quyết định phân phối lần đầu và Nhà nước thực hiện phân phối lại.
Thứ ba, nhận thức mới về công bằng, đó không phải là chia đều, bình quân chủ nghĩa mà là phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Do đó, công bằng không dừng lại ở phân phối, mà còn công bằng về cơ hội phát triển cho mọi người. Thực tiễn đã chứng minh, nếu tuyệt đối hóa mục tiêu kinh tế mà coi nhẹ mục tiêu xã hội thì mục tiêu kinh tế không đạt được trọn vẹn; ngược lại nếu tuyệt đối hóa mục tiêu xã hội, không coi trọng đúng mức mục tiêu phát triển kinh tế thì sẽ không tạo được nền tảng vật chất thực hiện mục tiêu xã hội. Điều này đặt ra yêu cầu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội cần làm tiền đề, điều kiện cho nhau. Từ đó, Đảng ta khẳng định nhất quán thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Đây là một trong những quan điểm quan trọng thể hiện bước phát triển trong lý luận của Đảng về công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, vấn đề phân phối ở nước ta được đặt ra với yêu cầu vừa bảo đảm mục tiêu phát triển kinh tế, vừa thực hiện công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế và phân phối công bằng có sự độc lập tương đối, trong đó tăng trưởng kinh tế nhằm tạo ra của cải vật chất còn phân phối công bằng là việc phân chia các sản phẩm một cách hợp lý. Điều này có nghĩa tăng trưởng kinh tế tự thân không dẫn đến phân phối công bằng và ngược lại. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tăng trưởng kinh tế và phân phối công bằng có quan hệ tương tác với nhau, thể hiện ở việc tăng trưởng kinh tế tạo ra của cải cho xã hội, là điều kiện thực hiện công bằng xã hội. Mặt khác, phân phối công bằng sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế thông qua việc thúc đẩy sự sáng tạo của mọi người qua đó tác động trở lại thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta lựa chọn cũng chính là để giải quyết quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Tuy nhiên, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế chưa có tiền lệ, cần tiếp tục tìm tòi, nghiên cứu.
(Còn nữa)
------------------------
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban chỉ đạo tổng kết lý luận: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005
(2), (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 56, 63
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 66
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1996, tr. 97
(6), (7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2001, tr. 84, 86 - 88
(8) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tập 67, tr. 118
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 25 - 28
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 204 – 205
(11) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 102
(12) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 128
(13) Nguyễn Phú Trọng: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Quan niệm và giải pháp phát triển”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 22-1-2007, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/2081/kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia---quan-niem-va-giai-phap-phat-trien.aspx
(14) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 25-11-2019, https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-nam-lich-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-cuoc-thi/cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-thong-qua-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vii-cua-dang-543514.html
(15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 73
(16) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Báo Điện tử Đảng Cộng sản, ngày 24-9-2015, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xi/cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-bo-sung-phat-trien-nam-2011-1528
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 76
(18) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Báo Điện tử Đảng Cộng sản, ngày 24-9-2015, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xi/cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-bo-sung-phat-trien-nam-2011-1528
(19) Nguyễn Phú Trọng: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Quan niệm và giải pháp phát triển”, Tlđd
Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới  (12/11/2024)
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Thành phố Hồ Chí Minh qua gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng  (05/11/2024)
Tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng xây dựng niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo  (05/06/2024)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển