Nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XVI: Kết quả đạt được, vấn đề đặt ra và giải pháp thời gian tới
TCCS - Trong nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (nhiệm kỳ 2020 - 2025), tỉnh Gia Lai đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế - xã hội, tiềm năng, lợi thế được khai thác, phát huy toàn diện, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tuy nhiên, tỉnh Gia Lai hiện vẫn phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức cần được giải quyết bằng những nhiệm vụ, giải pháp đột phá, hướng tới mục tiêu phát triển ổn định, bền vững thời gian tới.
Những kết quả nổi bật, tiêu biểu
Thời gian qua, tỉnh Gia Lai tập trung thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (nhiệm kỳ 2020 - 2025); đồng thời, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo, cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng như Quy hoạch tỉnh Gia Lai thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050(1),... nhằm thúc đẩy mạnh mẽ, hiệu quả quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm nền tảng để phát triển bền vững trong tương lai; xử lý, giải quyết, tháo gỡ các vấn đề, vướng mắc còn tồn đọng, cản trở sự phát triển của tỉnh.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, tỉnh Gia Lai phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức (nhất là hậu quả nặng nề của dịch bệnh COVID-19, biến đổi khí hậu, thiên tai, bão lũ,...) ảnh hưởng tiêu cực đến hầu hết ngành, lĩnh vực và tình hình đời sống nhân dân. Mặt khác, tỉnh vừa phải tập trung giải quyết những vấn đề phức tạp mới phát sinh, vừa phải xử lý những hạn chế từ thời kỳ trước. Trong bối cảnh đó, nhờ sự quan tâm của Trung ương, sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy; cùng với ý chí, quyết tâm, quyết liệt và sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị; sự đồng lòng, ủng hộ của người dân, doanh nghiệp,... đã mang lại nhiều chuyển biến tích cực, toàn diện ở hầu hết lĩnh vực trong phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, điều này được thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, cơ bản hoàn thành việc ban hành và triển khai các nhiệm vụ, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nội dung, mục tiêu trọng tâm của Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh, cụ thể: 1- Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; 2- Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, nhất là hạ tầng các vùng động lực; 3- Đẩy mạnh thu hút nguồn lực đầu tư cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp chế biến, công nghiệp năng lượng tái tạo và du lịch; 4- Phát triển lâm nghiệp theo hướng bền vững, tăng cường sinh kế, nâng cao tỷ lệ che phủ rừng thích ứng với biến đổi khí hậu. Mới đây, Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai đã ban hành Quyết định số 162/QĐ-UBND, ngày 18-4-2023, về “Ban hành Kế hoạch Chuyển đổi số tỉnh Gia Lai năm 2023” và Kế hoạch số 1334/KH-UBND, ngày 5-6-2023, về “Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trên địa bàn tỉnh Gia Lai năm 2023” cùng các chương trình hành động nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 6-10-2022, của Bộ Chính trị, “Về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” để thúc đẩy phát triển kinh tế vùng nhanh và bền vững; cải cách hành chính, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng; bảo đảm an sinh xã hội; chú trọng công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện,...
Thứ hai, nền kinh tế có bước phục hồi sau đại dịch COVID-19, tốc độ tăng trưởng được duy trì khá cao so với khu vực và bình quân cả nước; ước tính đến cuối nhiệm kỳ, 26 chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh đề ra có khả năng đạt và vượt. Cụ thể, giai đoạn 2021 - 2023, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) theo giá so sánh năm 2010 bình quân ước tăng 9,1% (chỉ tiêu Nghị quyết là 8,6% trở lên); GRDP bình quân đầu người theo giá hiện hành năm 2023 ước đạt 71,42 triệu đồng (chỉ tiêu Nghị quyết năm 2025 là 79,5 triệu đồng); tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản bình quân đạt 3,97%; cơ cấu lại và phát triển nông nghiệp có nhiều kết quả đáng ghi nhận. Mặt khác, tốc độ tăng trưởng bình quân ngành công nghiệp đạt 11,98%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt hơn 152.000 tỷ đồng (tăng bình quân 17,24%/năm); hoạt động thương mại, dịch vụ tăng trưởng đạt 14,33%; kim ngạch xuất khẩu năm 2022 đạt 660 triệu USD (tăng 8,2% so với năm 2021),...
Thứ ba, các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa, khoa học - công nghệ, thông tin truyền thông, giải quyết việc làm có nhiều chuyển biến tích cực. Các chính sách bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội được triển khai có hiệu quả, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng lên rõ rệt. Tổng số trường học đạt chuẩn quốc gia đạt 59% (tăng 8,5% so với năm 2020); hệ thống giáo dục thường xuyên, giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số từng bước được nâng lên cả về quy mô và chất lượng, hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú tiếp tục được duy trì. Mạng lưới y tế (nhất là y tế cơ sở) được quan tâm đầu tư, xây dựng (tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia về y tế; số bác sĩ/vạn dân; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế,... tăng đều qua các năm)(2). Bên cạnh đó, toàn tỉnh có 91/182 xã đạt chuẩn nông thôn mới, tăng 10 xã so với đầu nhiệm kỳ; có 3 đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; 125 thôn, làng đạt chuẩn nông thôn mới (đặc biệt, 110 thôn, làng là vùng đồng bào dân tộc thiểu số).
Thứ tư, giai đoạn 2021 - 2023, tỉnh Gia Lai đã giải quyết việc làm cho 66.890 người; đưa nguồn lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng khoảng 1.530 người; tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng dần qua từng năm, bình quân đào tạo nghề cho khoảng 11.000 người/năm(3). Mặt khác, kết cấu hạ tầng của các xã, thôn, làng đặc biệt khó khăn được đầu tư, diện mạo nông thôn có sự thay đổi, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện(4). Bên cạnh đó, công tác xóa đói, giảm nghèo đạt nhiều kết quả tích cực, đặc biệt là hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số; chế độ, chính sách cho trẻ em được quan tâm; công tác chăm sóc đối tượng người có công với cách mạng được chăm lo chu đáo; đời sống, lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh được xây dựng; công tác bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc được chú trọng,...
Thứ năm, nền quốc phòng - an ninh được giữ vững, chú trọng đầu tư phát triển, nâng cao sức mạnh toàn diện; hoàn thành tốt diễn tập khu vực phòng thủ, phòng thủ dân sự cấp tỉnh và diễn tập khu vực phòng thủ cấp huyện ngay năm thứ ba của nhiệm kỳ. Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh vô hiệu hóa âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động; đấu tranh hiệu quả với các hoạt động chống phá của các lực lượng thù địch, như Phun-rô, “Tin lành Đề-ga”; giải quyết, xử lý kịp thời, ổn định các vụ việc đột xuất, bất ngờ có liên quan đến an ninh, trật tự. Tội phạm xâm phạm trật tự xã hội có xu hướng giảm, bị kiềm chế, không để xảy ra tội phạm có tổ chức, băng nhóm theo kiểu “xã hội đen”,... Bên cạnh đó, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, cải cách tư pháp, nâng cao vai trò lĩnh vực nội chính tiếp tục được quan tâm lãnh đạo.
Thứ sáu, công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị tiếp tục được chú trọng, đổi mới; triển khai kịp thời việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ(5). Đồng thời, ban hành, sửa đổi nhiều văn bản quan trọng liên quan đến công tác xây dựng Đảng, nhất là công tác tổ chức, cán bộ (quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, phân cấp quản lý và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử,...). Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp được nghiêm túc thực hiện và có nhiều chuyển biến tích cực; lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, cơ quan, đơn vị, địa phương triển khai thực hiện quy trình rà soát, đưa ra khỏi quy hoạch, bổ sung quy hoạch và quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý theo đúng quy định. Bên cạnh đó, quan tâm chỉ đạo củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên(6); thực hiện nghiêm quy định cấp ủy viên dự sinh hoạt với chi bộ khu dân cư.
Công tác kiểm tra, giám sát được chú trọng, có trọng tâm, trọng điểm; công tác dân vận, dân tộc, tôn giáo và vấn đề thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở được triển khai thực hiện hiệu quả. Hiện nay, các phong trào thi đua yêu nước gắn với thực hiện các chỉ thị của Tỉnh ủy về xây dựng nông thôn mới trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số diễn ra thường xuyên, tích cực, như Cuộc vận động “Làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm trong đồng bào dân tộc thiểu số để từng bước vươn lên thoát nghèo bền vững”; các phong trào thi đua “Dân vận khéo”, mô hình “Nông hội” được triển khai sâu rộng, thu hút đông đảo cán bộ, đoàn viên, hội viên và nhân dân tham gia,... góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Một số khó khăn, thách thức đặt ra
Một là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong khắc phục những hạn chế và tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ ở một số cấp ủy, cơ quan, đơn vị, địa phương chuyển biến còn chậm. Đồng thời, cơ chế, chính sách đột phá của Trung ương cho vùng Tây Nguyên (trong đó có tỉnh Gia Lai) chưa đủ mạnh để tạo được sức lan tỏa mạnh mẽ nhằm phát huy, khai thác toàn diện tiềm năng, lợi thế cũng như tạo sức bật thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong tỉnh; mặt khác, khả năng thu hút, huy động các nguồn lực (kể cả nội lực và ngoại lực) còn hạn chế, khó khăn.
Hai là, kết quả thực hiện các dự án đầu tư công còn nhiều hạn chế, chất lượng, hiệu quả chưa cao, một số dự án chậm tiến độ hoặc chưa thực hiện. Trong khi đó, công tác quản lý đất đai, tài nguyên khoáng sản, cấp quyền sử dụng đất cho nhân dân còn nhiều bất cập. Mặt khác, nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng y tế có mặt chưa đáp ứng yêu cầu trong công tác khám, chữa bệnh, trang thiết bị còn thiếu, chưa đồng bộ, hiện đại; phát triển du lịch chưa tương xứng với tiềm năng; chưa chủ động đầu tư kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật cho du lịch. Thêm vào đó, hiện nay tỉnh Gia Lai có nguồn nhân lực khá dồi dào, nhưng trình độ hạn chế (lực lượng lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật chiếm tỷ lệ thấp so với các tỉnh trong vùng cũng như cả nước); tỷ trọng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp còn cao, chậm chuyển dịch cơ cấu lao động.
Ba là, tình hình an ninh trên một số lĩnh vực, địa bàn có thời điểm còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp; vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo, phản ánh của công dân còn chậm, có nơi, có lúc còn chưa phù hợp, chưa dứt điểm. Việc thực hiện các chỉ đạo, kết luận của tỉnh về lĩnh vực nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chưa triệt để, hiệu quả chưa cao. Mặt khác, một số tổ chức đảng chưa quan tâm đúng mức đến công tác bồi dưỡng chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống cho cán bộ, đảng viên, dẫn đến còn có cán bộ, đảng viên vi phạm, phải xem xét kỷ luật, có trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự; công tác tham mưu triển khai thực hiện một số nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của tỉnh có lúc, có việc chưa bảo đảm chất lượng, tiến độ, thời gian quy định.
Những nhiệm vụ, giải pháp đột phá, trọng tâm thời gian đến
Dự báo từ nay đến cuối nhiệm kỳ, tình hình trong nước và thế giới sẽ có nhiều thuậ#n lợi, song cũng không ít khó khăn, thách thức tác động đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Từ kinh nghiệm, kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra qua nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, trong thời gian tới, tỉnh Gia Lai tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp đột phá, trọng tâm sau:
Thứ nhất, cấp ủy, cơ quan, đơn vị, địa phương, nhất là người đứng đầu phải tiếp tục đoàn kết, thống nhất, phát huy vai trò, trách nhiệm, quyết liệt, sâu sát hơn nữa trong công tác lãnh đạo và tổ chức thực hiện; đồng thời, đổi mới mạnh mẽ phong cách, lề lối làm việc theo hướng cụ thể, sát việc, sát cơ sở. Bên cạnh đó, kiên quyết khắc phục tình trạng né tránh, đùn đẩy công việc, tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm, an phận, bảo thủ, trì trệ, không dám tham mưu, đề xuất xử lý công việc,... trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức (trong đó có một số trường hợp là người đứng đầu); bảo đảm công việc thuộc thẩm quyền phải được xử lý kịp thời nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành vì mục tiêu, lợi ích nhân dân và sự phát triển của tỉnh.
Mặt khác, kịp thời biểu dương, khen thưởng, cổ vũ, khích lệ và nhân rộng tập thể, cá nhân thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao; có sáng kiến, sáng tạo, có sản phẩm cụ thể trong công việc; kiên quyết xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân thiếu trách nhiệm để xảy ra chậm trễ hoặc không quyết định kịp thời công việc thuộc thẩm quyền. Các cấp, các ngành cần tăng cường phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và đề cao tính chủ động, trách nhiệm, tập trung giải quyết công việc có trọng tâm, trọng điểm hướng tới đạt kết quả cao nhất các chỉ tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh đề ra.
Thứ hai, tăng cường, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo, cụ thể hóa, triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước(7), như Quy hoạch tổng thể quốc gia, Quy hoạch vùng Tây Nguyên (cụ thể, Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 6-10-2022, của Bộ Chính trị, “Về phương hướng phát triển kinh tế, xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”(8)),...; nhanh chóng thực hiện, triển khai tổng thể các mục tiêu, nhiệm vụ trong Quy hoạch tỉnh Gia Lai thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050(9).
Thứ ba, duy trì, nâng cao chất lượng các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đã đạt và vượt; xác định rõ nguyên nhân các chỉ tiêu đạt thấp, dự báo khó đạt, từ đó, thực hiện các giải pháp căn cơ, đột phá và tập trung mọi nguồn lực, biện pháp với quyết tâm thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu đã đề ra. Đối với các công trình, dự án được xác định là trọng điểm của tỉnh trong nhiệm kỳ này đã có chủ trương đầu tư thực hiện, cấp ủy, cơ quan, đơn vị, địa phương có liên quan thể hiện trách nhiệm cao, phát huy vai trò chủ động, tiên phong, gương mẫu, quyết tâm, quyết liệt hơn trong tham mưu và tổ chức thực hiện; phối hợp, hợp tác chặt chẽ để tháo gỡ ngay khó khăn, vướng mắc, bảo đảm chất lượng, hiệu quả, tiến độ công trình, dự án theo kế hoạch đề ra.
Thứ tư, tiếp tục quan tâm công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch, rà soát, đẩy nhanh tiến độ thiết lập, triển khai các loại quy hoạch, nhất là các quy hoạch trọng tâm, liên quan đến các dự án đầu tư có sử dụng đất đúng quy định. Bên cạnh đó, tăng cường cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân phát triển công việc. Triển khai đồng bộ, hiệu quả, quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công; tạo chuyển biến mạnh mẽ trong thực hiện thu, chi ngân sách trên địa bàn để bảo đảm hoàn thành và vượt chỉ tiêu thu ngân sách nhà nước hằng năm. Thêm vào đó, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế; đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với lợi thế địa phương; chuyển đổi sản xuất theo hướng hữu cơ, nông nghiệp sạch, phát triển công nghiệp tái tạo, khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu,..
Thứ năm, quan tâm hơn nữa công tác giáo dục và đào tạo; tiếp tục nâng cao chất lượng công tác giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh hoạt động kết nối, quảng bá tiềm năng, thế mạnh, sản phẩm văn hóa, du lịch của các địa phương gắn với triển khai các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục - thể thao, bảo tồn, phát huy và khai thác hiệu quả các giá trị di tích lịch sử - văn hóa,... bởi đây là tiềm năng, thế mạnh chủ lực của địa phương. Mặt khác, quan tâm thực hiện tốt chính sách an sinh, phúc lợi xã hội, đẩy mạnh công tác giảm nghèo, nhất là trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số; chú trọng công tác đào tạo nghề, hỗ trợ giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động; giải quyết nhu cầu chính đáng về đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ sáu, chủ động phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn hiệu quả âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Tăng cường công tác nắm, quản lý địa bàn; phòng, chống trốn, vượt biên; ngăn chặn, đấu tranh xử lý hoạt động nhen nhóm phục hồi, như tổ chức Fulro, “Tin lành Đề-ga”, tà đạo “Hà Mòn”,... Nhanh chóng phát hiện, giải quyết kịp thời ngay từ cơ sở các vụ việc an ninh nông thôn, tranh chấp, khiếu kiện trong nhân dân; triển khai quyết liệt các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, trấn áp các loại tội phạm.
Thứ bảy, đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng, tạo chuyển biến tích cực trong từng tổ chức đảng, từng cấp ủy và mỗi cán bộ, đảng viên. Thực hiện nghiêm chỉ đạo, kết luận của Trung ương, của tỉnh về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực gắn với công tác xây dựng Đảng. Nâng cao hơn nữa trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị. Chủ động theo dõi, nắm chắc tình hình, thông tin nhiều chiều, lắng nghe ý kiến từ cơ sở để có giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sát thực tiễn. Phát huy vai trò của cấp ủy và người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc lãnh đạo công tác tư tưởng và quản lý cán bộ, đảng viên; tăng cường lãnh đạo thực hiện công tác tổ chức, cán bộ đúng quy trình, quy định, xác định đây là nhiệm vụ then chốt, nhân tố quyết định sự phát triển của tỉnh; tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy, bố trí đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị hoạt động hiệu lực, hiệu quả; chú trọng hơn nữa đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, luân chuyển cán bộ, nhất là cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số nhằm tạo nguồn cán bộ cho nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Bên cạnh đó, lãnh đạo thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát hằng năm đúng quy trình, quy định các chương trình kiểm tra, giám sát theo yêu cầu của Trung ương; thường xuyên đôn đốc việc khắc phục theo kết luận kiểm tra, giám sát. Đẩy mạnh thực hiện công tác dân vận ở các cấp, các ngành và không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, hướng mạnh hoạt động về cơ sở; đẩy mạnh tuyên truyền, vận động hội viên, đoàn viên và nhân dân tiếp tục thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước gắn với thực hiện các chỉ thị của tỉnh về xây dựng nông thôn mới trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số,.../.
------------------------
(1) Xem: Quyết định số 1015/QĐ-TTg, ngày 14-7-2020, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch tỉnh Gia Lai thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”
(2) Đến nay, tỉnh Gia Lai có 4.894 cán bộ y tế (trong đó có 918 bác sĩ); tổng số giường bệnh là 4.190 giường; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế năm 2022 đạt 87% và trong 6 tháng đầu năm 2023 đạt 87,55%
(3) Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề được nâng lên qua từng năm (cụ thể: năm 2021 đạt 36,95%; năm 2022 đạt 38,42% và 6 tháng đầu năm 2023 đạt 39,0%)
(4) Đến nay, 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã; 449/761 trường đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 59%; 110 xã, phường, thị trấn có nhà văn hóa được xây dựng riêng; hộ gia đình nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 97,3%; gần 100% hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia
(5) Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”” gắn với Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15 tháng 5 năm 2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
(6) Từ đầu nhiệm kỳ đến tháng 6-2023, Đảng bộ tỉnh Gia Lai kết nạp 5.709 đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên lên 64.983 đồng chí; trong đó, đảng viên nữ có 23.594 đồng chí (chiếm 36,31%); đảng viên dự bị có 2.613 đồng chí (chiếm 4,02%); đảng viên là người dân tộc thiểu số có 16.972 đồng chí (chiếm 26,11%); đảng viên là đoàn viên có 16.306 đồng chí (chiếm 25,1%); đảng viên là người theo tôn giáo có 1.406 đồng chí (chiếm 2,16%). Bên cạnh đó, toàn tỉnh có 1.576/1.576 chi bộ thôn, làng, tổ dân phố (đạt 100%); số chi bộ thôn, làng, tổ dân phố có chi ủy là 1.506/1.576 chi bộ (chiếm 95,56%); số trưởng thôn, làng, tổ dân phố là đảng viên có 1.468 đồng chí (đạt 93,15%); bí thư chi bộ kiêm trưởng thôn, làng, tổ dân phố có 1.107 đồng chí (đạt 70,24%)
(7) Nghị định số 168/2016/NĐ-CP, ngày 27-12-2016, của Chính phủ, về “Quy định về khoán rừng, vườn cây và diện tích mặt nước trong các ban quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên nông, lâm nghiệp nhà nước”; Quyết định số 304/2005/QĐ-TTg, ngày 23-11-2005, của Thủ tướng Chính phủ, “Về việc thí điểm giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng trong buôn, làng là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở các tỉnh Tây Nguyên”; Quyết định số 1015/QĐ-TTg, ngày 14-7-2020, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch tỉnh Gia Lai thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”; Quyết định số 1719/QĐ-TTg, ngày 14-10-2021, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn 1: từ năm 2021-2025”
(8) Nghị quyết đặt ra yêu cầu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế vùng, lấy phát triển nông, lâm nghiệp là trọng tâm, trụ đỡ; phát triển công nghiệp chế biến là động lực; phát triển du lịch là đột phá; chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả dựa trên công nghệ cao, chuyển đổi số và giá trị gia tăng cao,... Mặt khác, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, nhất là nhân lực đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, coi đây là một trong những khâu đột phá cho sự phát triển nhanh và bền vững của vùng
(9) Quyết định số 1015/QĐ-TTg, ngày 14-7-2020, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch tỉnh Gia Lai thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”
Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác tổ chức xây dựng Đảng năm 2023  (28/12/2023)
Tỉnh Đắk Lắk: Những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế - xã hội và định hướng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045  (22/12/2023)
Chủ động đối phó với thách thức, nắm bắt thời cơ trong phát triển tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030, tầm nhìn năm 2050  (17/12/2023)
- Kinh tế di sản trong bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay
- Giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy giá trị kinh tế di sản từ góc nhìn quản trị vùng và địa phương
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thúc đẩy động lực tăng trưởng mới - góc nhìn từ thực tiễn phát triển kinh tế di sản của tỉnh Quảng Ninh
- Quản trị di sản bền vững để góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh
- Tổng Bí thư Tô Lâm điện đàm với Tổng Thư ký Đảng Hành động Nhân dân, Thủ tướng Singapore
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển