Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Một nền tư pháp kiểu mới - nền tư pháp nhân dân đã từng bước được thiết lập. Gần 60 năm qua, các cơ quan tư pháp đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, nỗ lực phấn đấu để hoàn thành trọng trách mà Đảng và nhân dân giao phó, đã đóng góp không nhỏ vào thắng lợi chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, yêu cầu khách quan đặt ra là phải tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, điều chỉnh phạm vi nội dung và phương thức hoạt động của Nhà nước cho phù hợp. Nguyên tắc quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa phải được đề cao hơn bao giờ hết. Trong cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp có vị trí rất quan trọng. Bởi vì, các cơ quan tư pháp là công cụ quan trọng của Đảng và Nhà nước để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ nhân dân, các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người dân, bảo đảm kỷ cương xã hội. Từ khi công cuộc đổi mới bắt đầu, thực hiện chủ trương cải cách bộ máy nhà nước, các cơ quan tư pháp đã tham gia tích cực và chủ động vào việc soạn thảo văn bản pháp luật, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, từng bước nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân. Trong những năm qua, các cơ quan tư pháp đã luôn luôn đứng ở tuyến đầu của nhiệm vụ bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với tội phạm và các vi phạm pháp luật, giải quyết nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật các tranh chấp nảy sinh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế, phát huy tính chủ động, sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân trong quá trình đổi mới. Có thể nói, quyền lực tư pháp đã được thực hiện có hiệu quả với sự đóng góp lớn lao của toàn bộ hệ thống tư pháp.

Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta luôn đề cao các nguyên tắc về tôn trọng và bảo vệ quyền con người, nguyên tắc bình đẳng, công bằng, công khai, minh bạch trong xây dựng và thực hiện pháp luật. Để hoạt động của các cơ quan tư pháp đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết về vấn đề này như : Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII), Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII). Có thể nói, các Nghị quyết nói trên của Đảng đã từng bước đi vào cuộc sống. Tuy kết quả bước đầu của cải cách tư pháp còn khiêm tốn, nhưng đó là những yếu tố có ý nghĩa quan trọng để tiến hành những bước cải cách tiếp theo. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội những năm tới. Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005, bên cạnh những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ là nhiệm vụ "giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia" (1), vai trò của các cơ quan tư pháp cần được củng cố và tăng cường. Đại hội cũng đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Nói một cách khái quát, nhà nước pháp quyền là hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và quản lý theo pháp luật và đề cao các giá trị nhân văn, tôn trọng và bảo đảm quyền của con người, quyền công dân. Căn cứ vào những đặc trưng đó của Nhà nước pháp quyền, có thể thấy nhiệm vụ cấp bách hàng đầu hiện nay là phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật nghiêm minh. Do đó yêu cầu "cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp" (2) là một trong những đòi hỏi bức xúc hiện nay, là một đòi hỏi tự thân của nền công lý và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, ngày 2-1-2002, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08/NQ-TƯ về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Theo Nghị quyết, công tác tư pháp cần được thực hiện trên những quan điểm cơ bản sau đây :

1. Công tác tư pháp phải thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, bám sát và phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ; phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế ; giữ vững bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

2. Công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ chức ; bảo vệ trật tự kỷ cương ; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân.

3. Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào công tác tư pháp. Các cơ quan tư pháp phải dựa vào nhân dân để hoạt động, đồng thời phải là chỗ dựa vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp.

4. Xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại, góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng và Nhà nước.

Trên tinh thần những quan điểm chỉ đạo cơ bản đó, cần xác định bước đi và phương thức thực hiện cải cách tư pháp cho thích hợp. Trước hết, cải cách tư pháp phải được tiến hành tổng thể trong cải cách bộ máy nhà nước, trong sự liên hệ mật thiết với cải cách hành chính. Quá trình cải cách đó không thể tách rời việc đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Thứ hai, cải cách tư pháp phải hướng tới việc thực hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động tư pháp như : mỗi cơ quan thực hiện từng khâu của tiến trình tố tụng phải chịu trách nhiệm độc lập về kết luận của mình ; bảo đảm tính khách quan của việc xét xử hai cấp ; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử ; mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật ; quyền bào chữa của bị can, bị cáo được bảo đảm ; nhân dân tham gia, kiểm tra và giám sát hoạt động tư pháp... Thứ ba, cải cách tư pháp là một nhiệm vụ bao quát nhiều lĩnh vực trên một phạm vi khá rộng. Thực hiện nhiệm vụ này phải tiến hành từng bước, nhanh chóng nhưng phải thận trọng và hiệu quả, cần lựa chọn những vấn đề cấp bách để triển khai trước. Không thể quan niệm rằng, cải cách tư pháp chỉ cần điều chỉnh một đôi chỗ về thiết chế và thể chế là đủ. Chúng ta phải nghiên cứu, tiến hành cuộc cải cách này theo tinh thần mới, tinh thần tự phê phán. Cần thấy rõ những mặt được, chưa được, những bất cập của hệ thống tư pháp hiện nay để cuộc cải cách đi đúng hướng và có trọng tâm, trọng điểm. Thứ tư, trong việc tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, cần khách quan, thận trọng bám sát thực tế nước ta.

Nói cải cách tư pháp là nói cải cách tổ chức và phương thức hoạt động của các cơ quan tư pháp bao gồm tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án, các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp như công chứng, giám định tư pháp, hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp, luật sư, tư vấn pháp luật...

Về phương pháp tiến hành, cần chọn cải cách tòa án là khâu đột phá trong cải cách tư pháp, bởi vì trong hệ thống các cơ quan tư pháp, tòa án có vai trò đặc biệt quan trọng. Phán quyết của tòa án thể hiện kết quả cuối cùng của tiến trình tố tụng : tuyên bố một công dân có tội hoặc không có tội, đúng hoặc sai. Vì lẽ đó, tòa án là nơi thể hiện sâu sắc nhất bản chất của nhà nước và nền công lý nước ta ; đồng thời thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Sứ mạng của tòa án được thể hiện ở chỗ nó là công cụ để bảo vệ công lý và sự công bằng xã hội. Cải cách tòa án là tạo ra các điều kiện và các phương tiện tố tụng tối ưu để giải quyết các vụ án đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh. Vì vậy, cải cách tòa án cần nhằm đạt các mục tiêu sau :

Thứ nhất, tòa án bằng hoạt động của mình phải góp phần vào việc xây dựng từng bước và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân và bảo đảm các quyền dân chủ của công dân trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà Hiến pháp đã ghi nhận. Hoạt động của tòa án phải phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới, giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.

Thứ hai, góp phần nâng cao nhận thức pháp luật của xã hội, củng cố và tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Một xã hội có kỷ cương, kỷ luật phải được xây dựng trên ý thức tuân thủ pháp luật ngày càng cao của mọi thành viên trong xã hội, giáo dục các thành viên và cộng đồng trong xã hội có thói quen và nếp sống tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Tòa án phải cương quyết xử lý nghiêm minh, tuyên phạt công khai và minh bạch các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần tạo dựng một trật tự pháp lý, tạo lập một môi trường sống lành mạnh, an toàn, kiểm soát và giải quyết tốt các mối quan hệ trong hành lang pháp luật.

Thứ ba, thông qua thực tiễn xét xử, tiến hành tổng kết, phát hiện và kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước.

Thứ tư, xây dựng một hệ thống tòa án gần dân, thuận lợi cho dân ; đồng thời phải tiết kiệm cho ngân sách nhà nước.

Về đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ là phải sắp xếp lại hệ thống tòa án nhân dân, phân định hợp lý thẩm quyền của tòa án nhân dân các cấp. Tăng cường đội ngũ thẩm phán và hội thẩm nhân dân cả về số lượng và chất lượng. Đây là nhiệm vụ vừa có tính cấp bách, vừa có tính lâu dài. Quốc hội khóa X trong kỳ họp thứ 11 sẽ thể chế hóa những vấn đề này trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi). Còn về lâu dài, cần tiếp tục nghiên cứu phân định lại thẩm quyền cho tòa án nhân dân theo hướng tăng thẩm quyền cho tòa án nhân dân cấp huyện trên cơ sở bảo đảm tổ chức tòa án theo nguyên tắc hai cấp xét xử. Thực hiện đổi mới Tòa án nhân dân tối cao để tập trung làm tốt nhiệm vụ giám đốc thẩm, tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn tòa án áp dụng pháp luật thống nhất và quản lý tòa án địa phương về tổ chức. Nghiên cứu để quy định và thực hiện các thủ tục tố tụng đa dạng nhưng thống nhất trong tố tụng hình sự. Riêng về Tòa Hành chính, cần nghiên cứu để mở rộng thẩm quyền cho tòa án trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính. Làm thế nào để mọi người dân đều thấy rằng, cuộc sống bình yên của họ, tính mạng, tài sản của họ, danh dự và nhân phẩm của họ luôn luôn được đặt dưới sự bảo vệ đáng tin cậy của pháp luật.

Đội ngũ thẩm phán theo đánh giá chung hiện nay vẫn còn thiếu và yếu. Rồi đây, các quan hệ kinh tế, dân sự, lao động... ngày càng đa dạng, phức tạp, nhất là những quan hệ có liên quan đến yếu tố nước ngoài. Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ những quan hệ đó đòi hỏi thẩm phán phải có trình độ chính trị, chuyên môn và nghiệp vụ cao. Do vậy, ngay từ bây giờ phải chăm lo xây dựng đội ngũ thẩm phán ngày càng vững về chính trị, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới. Về đạo đức của cán bộ tòa án, nhân dân vẫn còn phàn nàn, nghi ngại về phẩm chất đạo đức của một số cán bộ tư pháp, trong đó có các thẩm phán. Do vậy, cần kiên quyết hơn nữa trong việc rà soát lại đội ngũ thẩm phán, đấu tranh và xử lý kiên quyết với những hành vi phạm pháp của thẩm phán, làm cho đội ngũ cán bộ tòa án ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của nhân dân.

Đội ngũ Hội thẩm nhân dân là một lực lượng đông đảo đại diện của nhân dân tham gia xét xử. Hiện nay trong cả nước đã bầu được hơn 11 000 Hội thẩm nhân dân. Các cơ quan, đoàn thể như : Hội đồng nhân dân, Tòa án, Mặt trận Tổ quốc cần có những biện pháp thiết thực bồi dưỡng nghiệp vụ cho Hội thẩm nhân dân để họ tham gia có hiệu quả hơn vào công tác xét xử, tránh hình thức khi tham gia vào phiên tòa, gây tâm lý không bình thường cho bị cáo, các đương sự và công chúng. Một nền tư pháp nhân dân không thể thiếu đại diện của nhân dân tham gia xét xử, nhưng cũng không thể chấp nhận sự tham gia mang tính hình thức của những người đại diện đó. Vì vậy, chất lượng Hội thẩm nhân dân cần được quan tâm đúng mức hơn từ khâu giới thiệu người để bầu, đến khâu huấn luyện, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ và quản lý đội ngũ Hội thẩm nhân dân. Đây là một trong những việc cần làm và làm càng sớm càng tốt.

Trong hệ thống tư pháp hình sự, điều tra và công tố luôn là mắt xích quan trọng, phục vụ đắc lực cho mục đích phát hiện chính xác, kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

Luật pháp nước ta quy định mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa các khâu phát hiện tội phạm, điều tra và luận tội (công tố) nhằm mục đích truy tố chính xác tội phạm và người phạm tội ra trước tòa án để tòa án xét xử.

Những thay đổi cơ bản trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước thời gian qua đặt ra trước cơ quan đảm nhiệm nhiệm vụ điều tra, công tố yêu cầu rất cao. Đó là, các cơ quan này, một mặt phải đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm, nhưng mặt khác, không để xảy ra oan sai, làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân với bất cứ lý do gì. Ở đây không thể lấy mục đích biện hộ cho hành vi bất hợp pháp, lấy chỉ số các vụ án, các can phạm bị truy tố xét xử để biện hộ cho việc vi phạm các nguyên tắc của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa ; bởi vì, điều đó chỉ làm giảm sút uy tín của cơ quan tư pháp và giảm lòng tin của nhân dân đối với pháp luật.

Trong tình hình hiện nay, cải cách các hoạt động điều tra, công tố ở nước ta cần đi theo hướng :

Một là, xác định tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra theo nguyên tắc gọn đầu mối, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất ; mỗi đơn vị, bộ phận cần được tổ chức chuyên sâu và quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng chức danh ; kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động điều tra và trinh sát. Có phương án đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan điều tra trong quân đội phù hợp với đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều tra của Nhà nước.

Hai là, bảo đảm cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Thực chất là, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp theo tinh thần Hiến pháp năm 1992 vừa được sửa đổi. Những khái niệm có tính chất nền tảng trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân như thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử, kiểm sát thi hành án... cần được làm rõ để tránh những vướng mắc không đáng có trong thực tiễn tư pháp. Tổ chức cơ quan điều tra tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra một số tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp.

Ba là, kiện toàn một bước đội ngũ cán bộ điều tra và kiểm sát, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cho họ, làm cho pháp luật được thực thi thống nhất và nghiêm minh. Hết sức tránh hiện tượng hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế do sai lầm chủ quan của cán bộ tư pháp khi giải quyết các vụ việc phát sinh từ các giao dịch dân sự, kinh tế. Cán bộ điều tra, kiểm sát cũng như các cán bộ của các cơ quan bảo vệ pháp luật khác cần luôn luôn nhận thức rằng nhiệm vụ của mình không chỉ là đấu tranh trấn áp tội phạm, mà còn thúc đẩy, tạo điều kiện cho các giao dịch, các quan hệ kinh tế, dân sự, thương mại... phát triển bình thường và đúng pháp luật.

Thi hành án là một vấn đề phức tạp hiện nay. Do những điều kiện lịch sử nhất định, công tác thi hành án của nước ta chưa tập trung vào một đầu mối mà còn phân tán giữa thi hành án hình sự với thi hành án dân sự và các loại án khác. Tới đây, trước mắt cần giải quyết vấn đề án tồn đọng, đồng thời tiếp tục nghiên cứu đưa ra một mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án. Trong tác nghiệp thi hành án, cần kết hợp giữa hoạt động có tính chất chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan thi hành án với việc từng bước xã hội hóa một số công việc trong thi hành án, nhất là thi hành án dân sự, giảm tải cho Nhà nước một số công việc mà lẽ ra lâu nay người dân phải làm và có thể làm được mà không cần đến sự can thiệp của cơ quan chính quyền. Đối với các vụ án hình sự có liên quan đến kinh tế (tài sản, tài chính), các vụ án hình sự khác có hình phạt bổ sung về tiền và tài sản, các cơ quan tiến hành tố tụng cần chú trọng áp dụng đầy đủ các chế tài về kiểm kê, kiểm soát theo quy định của pháp luật ngay từ khi vụ án được khởi tố điều tra cho đến khi tuyên án. Có như vậy mới bảo đảm cho mọi bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và đầy đủ.

Công chứng, luật sư và giám định tư pháp là những lĩnh vực hoạt động nhằm mục đích hỗ trợ đắc lực cho hệ thống tư pháp. Về phương diện nhà nước, hoạt động công chứng, luật sư và giám định tư pháp sẽ góp phần quan trọng làm cho các hoạt động của hệ thống tư pháp được khách quan, nhanh chóng và đúng pháp luật (đặc biệt là đối với hệ thống xét xử). Xét trên phương diện quyền công dân, hoạt động công chứng, luật sư và giám định tư pháp góp phần bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thông qua tư vấn pháp luật, bào chữa ; hoặc đại diện trước tòa án hay trọng tài kinh tế để bênh vực quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức, cũng như tạo lập và cung cấp những chứng cứ không thể phản bác, bảo đảm an toàn cho công dân trong các quan hệ mà họ tham gia, đặc biệt là các quan hệ tài sản và kinh doanh. Ở Việt Nam, công chứng, luật sư và giám định tư pháp là các lĩnh vực hoạt động mới được phát triển mạnh trong thời gian gần đây. Tuy chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, song đã thể hiện tầm quan trọng đối với hệ thống tư pháp nói riêng và hoạt động quản lý nhà nước nói chung. Hoạt động công chứng trong thời gian tới cần theo hướng thuận tiện, nhanh chóng, chính xác. Các tổ chức luật sư cần được sớm kiện toàn theo Pháp lệnh luật sư năm 2001, làm thế nào để từ nay đến năm 2005, chúng ta có một đội ngũ luật sư đông về số lượng và giỏi về nghiệp vụ, ngang tầm với những yêu cầu của thời cuộc hiện nay. Các tổ chức giám định tư pháp cũng cần được tiếp tục hoàn thiện. Cần thành lập cơ quan giám định pháp y quốc gia và xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao về giám định tư pháp. Có thể khẳng định rằng, cải cách các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp là một bộ phận không thể tách rời của cải cách hệ thống tư pháp Việt Nam. Bộ Tư pháp là cơ quan giúp cho Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước đối với lĩnh vực nói trên cần đẩy mạnh hơn nữa đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp, làm cho mỗi cơ quan, tổ chức này có được vị trí đích thực của mình trong hoạt động tư pháp, phục vụ cho mục tiêu chung của toàn bộ hệ thống tư pháp.

Thực tế đã và đang đòi hỏi phải thành lập lực lượng cảnh sát tư pháp để chuyên làm nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa, dẫn giải bị can, bị cáo, bảo vệ trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, hỗ trợ trong công tác thi hành án và thực hiện một số nhiệm vụ khác, góp phần hiệu quả hơn nữa vào các hoạt động tư pháp. Việc triển khai tổ chức và hoạt động của lực lượng cảnh sát tư pháp trong điều kiện Việt Nam cần được nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi tiến hành.

Một vấn đề có ý nghĩa rất lớn là tăng cường cơ sở vật chất và các phương tiện kỹ thuật hiện đại cho các cơ quan tư pháp để các cơ quan này đủ khả năng đấu tranh chống tội phạm. Ngân sách nhà nước hàng năm cần dành một khoản thích đáng để đầu tư cơ sở vật chất, trụ sở, phương tiện và các trang bị kỹ thuật hiện đại cho các cơ quan tư pháp.

Tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp cũng như các thủ tục tố tụng để tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho hoạt động của các cơ quan này. Những quy định của pháp luật tố tụng tuy chỉ là những quy định về thủ tục và cách thức giải quyết các vụ án, nhưng chúng lại thể hiện rất rõ bản chất giai cấp của nền tư pháp. Một nền tư pháp dân chủ, mang đậm tính nhân dân sẽ không chấp nhận những thủ tục tư pháp rườm rà, nhiều tầng nấc, quan liêu và bất lợi cho các bên tham gia tố tụng. Các thủ tục này phụ thuộc nhiều vào mô hình tổ chức các cơ quan tư pháp. Mô hình tư pháp được tổ chức theo cách thức dân chủ như thế nào thì các thủ tục tố tụng sẽ bảo đảm dân chủ đến chừng ấy. Trong thời gian trước mắt, cần sớm sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự theo hướng bảo đảm để các thủ tục tố tụng dân chủ hơn, chặt chẽ hơn và hiệu quả hơn. Cần tăng cường vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự để bảo đảm tranh tụng dân chủ trước phiên tòa. Bộ luật Tố tụng dân sự cũng cần sớm được ban hành để đáp ứng kịp thời việc giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc xác định phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng dân sự cần phải dựa vào những kết quả nghiên cứu khoa học và tổng kết thực tiễn thi hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989 và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, hành chính ; Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động.

Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến các thủ tục tố tụng như Luật Thi hành án, Pháp lệnh về giám định tư pháp... cũng cần sớm được ban hành để tạo được sự đồng bộ và thống nhất của pháp luật tố tụng, bảo đảm việc giải quyết các vụ án một cách kịp thời, công minh và đúng pháp luật.

Toàn bộ tiến trình thực hiện cải cách tư pháp không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết 08-NQ/TƯ của Bộ Chính trị đã xác định : "Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp chặt chẽ về chính trị, tổ chức và cán bộ, bảo đảm cho hoạt động tư pháp thực hiện đúng quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp, khắc phục tình trạng cấp ủy buông lỏng lãnh đạo hoặc cấp ủy viên can thiệp không đúng vào hoạt động tư pháp".

Việc thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TƯ của Bộ Chính trị không thể có kết quả nếu thiếu sự phối hợp đồng bộ và chặt chẽ giữa các cơ quan tư pháp. Sự phối hợp đó là một trong những điều kiện quan trọng, bảo đảm cho Nghị quyết đi vào thực tiễn sống động của hoạt động tư pháp hiện nay.


(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr 90