TCCSĐT - Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ đổi mới là xây dựng môi trường văn hóa và “Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh”.

Xây dựng môi trường văn hóa

Về mặt khái niệm, môi trường văn hóa là tổng hòa các loại điều kiện văn hóa tinh thần tồn tại xung quanh con người và tác động tới hoạt động của con người. Yếu tố chủ yếu tạo thành môi trường văn hóa là giáo dục, khoa học, kinh tế, văn nghệ, đạo đức, tôn giáo, triết học, tâm lý dân tộc và tập tục truyền thống.

Từ tầm nhìn vĩ mô, môi trường văn hóa là một bộ phận hợp thành của toàn bộ môi trường xã hội, vì thế, nó có vai trò to lớn đối với sự ổn định phát triển và tiến bộ của toàn thể xã hội.

Thứ nhất, môi trường văn hóa có ảnh hưởng đến sự hình thành quan điểm giá trị và quan niệm phân phối xã hội một cách hợp lý, nhân văn, phù hợp với các tầng lớp khác nhau trong xã hội nhằm bảo đảm sự ổn định.

Thứ hai, môi trường văn hóa ảnh hưởng tới ổn định xã hội thông qua quan hệ giữa con người với con người. Xã hội là do con người tổ chức hợp thành. Cá nhân, gia đình là tế bào của xã hội. Con người sống trong xã hội tất nhiên sẽ phát sinh nhiều loại quan hệ và những mối quan hệ này ở những mức độ khác nhau sẽ ảnh hưởng đến ổn định xã hội. Phải tăng cường ý thức đạo đức bao gồm quan niệm đạo đức xã hội và đạo đức nghề nghiệp. Thông qua dư luận xã hội và hoạt động văn hóa làm cho các yêu cầu đạo đức trở thành một bộ phận hợp thành ý thức tư tưởng của mọi công dân.

Thứ ba, phải thực hiện công bằng xã hội. Môi trường văn hóa tạo cơ hội, tạo điều kiện hưởng thụ văn hóa, hưởng thụ giáo dục. Bên cạnh đó, việc hưởng thụ các giá trị tinh thần khác thông qua sách báo, truyền hình, ca nhạc, triển lãm, du lịch văn hóa và du lịch sinh thái cũng rất quan trọng. Vấn đề đặt ra với chúng ta hiện nay là song song với việc mở rộng không gian và môi trường văn hóa, cần chú trọng hơn nữa chất lượng hưởng thụ văn hóa, giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị, giữa vùng phát triển nhanh và vùng phát triển chậm, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa.

Môi trường văn hóa và biến đổi xã hội: Xã hội ổn định không có nghĩa là xã hội không có biến đổi. Trong hệ thống xã hội to lớn và phức tạp, giữa các tầng bậc, các thành phần, các yếu tố có thể xảy ra tình trạng không thích ứng, không hài hòa. Đây là cội nguồn khách quan của biến đổi xã hội. Với tư cách là một bộ phận hợp thành môi trường xã hội, môi trường văn hóa tất có liên quan đến sự biến đổi xã hội, đặc biệt là liên quan đến văn minh chính trị của nhà cầm quyền và sự lựa chọn hình thức phát triển đất nước của người dân.

Trong thời đại ngày nay, sự phát triển văn minh vật chất gắn liền với thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại như kỹ thuật số, công nghệ tin học, công nghệ sinh học... Như vậy, văn minh vật chất hiện đại chủ yếu dựa vào trí lực, không phải là khai thác và lợi dụng tài nguyên theo kiểu tiêu hao mà khai thác tài nguyên song song với việc bảo vệ và tái sinh tài nguyên.

Còn về văn minh tinh thần, trước hết, môi trường văn hóa tốt đẹp sẽ tương thích và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của đời sống văn hóa tinh thần vì thành phần cơ bản của môi trường văn hóa bao gồm tình trạng đời sống văn hóa của quần chúng, tình trạng giáo dục khoa học - kỹ thuật, tình trạng đạo đức xã hội và tình trạng tư tưởng lý luận. Thứ hai, nhìn từ góc độ khác sẽ thấy phạm vi môi trường văn hóa rộng hơn giá trị văn hóa tinh thần. Vì môi trường văn hóa hiện thực bao gồm loại hình văn hóa, hoạt động văn hóa, tâm lý văn hóa nên ở đó, tồn tại cả cái tốt và cái xấu, tích cực và tiêu cực, tiến bộ và lạc hậu.... Còn phạm trù giá trị văn hóa tinh thần là phạm trù chỉ những giá trị mang ý nghĩa kết tinh, ở đó không có chỗ cho những sản phẩm văn hóa kém chất lượng.

Môi trường văn hóa và sự phát triển kinh tế - xã hội: Môi trường văn hóa có tác dụng thúc đẩy tích cực đối với phát triển kinh tế. Thứ nhất, môi trường văn hóa có tác dụng điều chỉnh hài hòa đối với vận hành bình thường của nền kinh tế. Các loại giá trị văn hóa không những là cơ sở chỉ đạo động cơ tăng trưởng kinh tế mà còn quy định tính hợp lý của mục tiêu tăng trưởng. Thứ hai, môi trường văn hóa tốt đẹp có thể điều hòa, sửa chữa, uốn nắn tính hẹp hòi của quan điểm giá trị vì lợi nhuận của kinh tế thị trường. Đặc biệt phải coi trọng vai trò động lực của văn hóa; phải không ngừng nâng cao tỷ trọng văn hóa tinh thần; làm trong sạch thị trường văn hóa, chỉnh đốn và quy phạm trật tự thị trường văn hóa theo pháp luật; đặt phát triển văn hóa vào vị trí chiến lược quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước.

Môi trường văn hóa và sự phát triển toàn diện con người: Tăng cường xây dựng môi trường văn hóa tạo dựng nên một môi trường văn hóa lành mạnh, tiến lên, phát triển là bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện phát triển toàn diện con người.

Xây dựng văn hóa gia đình

“Văn hóa gia đình là hệ thống những giá trị, chuẩn mực khu biệt đặc thù điều tiết mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và mối quan hệ giữa gia đình với xã hội, phản ánh bản chất của các hình thái gia đình đặc trưng cho các cộng đồng các tộc người, các dân tộc và các khu vực khác nhau được hình thành và phát triển lâu dài của đời sống gia đình, gắn liền với những điều kiện phát triển kinh tế, môi trường tự nhiên và xã hội” (1).

Nhận thức được vai trò của gia đình trong việc giữ vững ổn định xã hội, phát triển kinh tế, nuôi dưỡng giáo dục và cung cấp nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, Đảng ta luôn quan tâm đến xây dựng văn hóa gia đình. Xây dựng môi trường văn hóa và văn hóa gia đình đã được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII về xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước: “Xây dựng môi trường văn hóa với nội dung đầu tiên là xây dựng văn hóa gia đình “tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, trường học, đơn vị bộ đội), các vùng dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi) đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân” (2).

Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước xác định một trong những nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa là thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nền nếp ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau.

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt các đề án “Phát huy giá trị tốt đẹp của mối quan hệ trong gia đình và hỗ trợ xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững đến năm 2020” (Quyết định số 279/QĐ-TTg); phê duyệt “Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030” (Quyết định số 629/QĐ-TTg); phê duyệt “Chương trình hành động quốc gia về phòng chống bạo lực gia đình đến năm 2020” (Quyết định số 215/QĐ-TTg) nhằm thể chế Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI. Các chương trình và đề án đã khẳng định xã hội gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc là một trong những mục tiêu quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy phát huy các giá trị tốt đẹp các mối quan hệ trong gia đình và hỗ trợ xây dựng gia đình Việt Nam hạnh phúc, bền vững là trách nhiệm của toàn Đảng và toàn dân.

Trên thực tế, xây dựng văn hóa gia đình hướng vào các mục tiêu cụ thể:

(1) Nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình, ngăn chặn các tệ nạn xã hội thâm nhập vào gia đình. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức rất nhiều hoạt động nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, gia đình, cộng đồng và toàn xã hội trong công tác phòng chống, chống bạo lực gia đình, từng bước ngăn chặn và giảm bạo lực gia đình trên phạm vi toàn quốc; cụ thể là các hoạt động viết về gương điển hình trong phòng, chống bạo lực gia đình; cuộc thi Câu lạc bộ gia đình chủ đề: Gia đình hạnh phúc, xây dựng kế hoạch mạng lưới quốc gia về phòng chống bạo lực gia đình giai đoạn 2010 - 2020. Trên thực tế, tình trạng ngoại tình, kết hôn bất hợp pháp, ly thân, chung sống không kết hôn, không muốn sinh con, lối sống thử, sống độc thân, kết hôn đồng tính là nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình. Theo số liệu thống kê hành vi đánh đập ngược đãi dẫn đến ly hôn chiếm khoảng hơn 50% trong tất cả các nguyên nhân dẫn đến ly hôn.

(2) Tăng cường các giải pháp hữu hiệu nhằm kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển, thực hiện đầy đủ các quyền và trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, đặc biệt đối với trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ. Những hoạt động hưởng ứng Ngày quốc tế hạnh phúc 20-3 với chủ đề Yêu thương và chia sẻ; các hoạt động kỷ niệm 15 năm ngày gia đình Việt Nam 28-6 với chủ đề Bữa cơm gia đình ấm áp yêu thương cùng với công tác truyền thông về lĩnh vực tiếp tục được đẩy mạnh với nhiều hình thức đa dạng, nội dung phong phú trên các phương tiện thông tin đại chúng đã tạo nên các mối quan hệ trong gia đình ngày càng tốt đẹp, tiến bộ, văn minh. Đó là các quan hệ giữa vợ với chồng, cha mẹ với con cái, quan hệ giữa người cao tuổi và con cháu trưởng thành nhằm hỗ trợ xây dựng gia đình hạnh phúc bền vững.

(3) Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tính năng động, tích cực của các thành viên trong gia đình tăng lên theo quá trình phát triển của đất nước. Năng lực của gia đình trong phát triển kinh tế, ứng phó với thiên tai và khủng hoảng kinh tế ngày càng được nâng cao; việc làm phong phú và đa dạng hơn đã tăng thu nhập và phúc lợi cho các hộ gia đình; đặc biệt đối với các hộ gia đình chính sách, hộ nghèo và cận nghèo.

Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam mà trọng tâm là xây dựng môi trường văn hóa phải bắt đầu từ xây dựng văn hóa gia đình. Vì chính gia đình là nơi sinh ra, giáo dục và nuôi dưỡng thể lực và nhân cách của mỗi con người, đó là nguồn lực tổng hợp như vốn xã hội để phát triển. Không có nguồn lực nào quan trọng và quý giá bằng nguồn lực con người, bằng nguồn nhân lực, từ nhân lực hiện hữu bằng sức lao động đã trưởng thành, đang được sử dụng đến nhân lực tiềm tàng, tiềm năng đang được nuôi dưỡng, đào tạo, nó như “của để dành" như” “vốn dự trữ” cho tương lai. Do đó, con người, “tư bản” người là quan trọng bậc nhất, quyết định nhất vốn xã hội, nhìn từ quan điểm phát triển, từ lăng kính quản lý xã hội, quản trị doanh nghiệp và sâu xa hơn từ tầm nhìn văn hóa, từ triết lý nhân văn của phát triển văn hóa, phát triển con người. Để có được nguồn nhân lực đó, đầu tiên và quan trọng nhất là từ nhiệm vụ xây dựng văn hóa gia đình.

Nghị quyết Trung ương 9, khóa XI xác định rằng, “phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa”.

Quan điểm chỉ đạo này cho thấy, mối liên hệ bên trong mật thiết, gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời giữa văn hóa với con người, giữa con người với văn hóa, về thực chất, phát triển văn hóa là phát triển con người, lấy phát triển con người là trọng tâm. Phát triển con người không chỉ tạo ra chất lượng nguồn nhân lực để phát triển văn hóa mà con người với năng lực sáng tạo, trình độ học vấn, tiềm lực trí tuệ, phẩm giá đạo đức, lối sống của nó, tựu trung lại là sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của con người là tính hướng đích, là mục đích, mục tiêu của phát triển văn hóa. Xét theo quan điểm giá trị thì hệ giá trị Chân - Thiện - Mỹ của văn hóa cũng chính là hệ giá trị phát triển con người, con người vừa với tư cách là chủ thể mang nhân cách của chính mình, phản ánh những chuẩn mực, yêu cầu của mẫu nhân cách xã hội, vừa với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa, sản xuất ra văn hóa dưới dạng các sản phẩm, các giá trị, đồng thời còn là chủ thể quản lý, cảm thụ, tiêu dùng văn hóa, thực hiện các hoạt động quảng bá, giao lưu văn hóa, tiếp xúc và tiếp biến văn hóa để phát triển xã hội, phát triển chính mình. Chỉ có con người mới là chủ nhân đích thực của sáng tạo văn hóa, cả văn hóa vật chất (vật thể) lẫn văn hóa tinh thần (phi vật thể), cũng chỉ có con người, từ cấp độ cá nhân - cá thể gia đình đến cấp độ xã hội - cộng đồng, dân tộc, rộng nhất là nhân loại, mới tạo dựng nên môi trường văn hóa - xã hội để phát triển văn hóa và phát triển xã hội nói chung, để làm cho hiệu ứng xã hội của văn hóa (nhất là văn hóa tinh thần), lan tỏa, mở rộng, thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống, nhân lên sức sống, sức phát triển của con người, của văn hóa, không chỉ những thế hệ người trong mối quan hệ gia đình, trong một dân tộc - quốc gia, nền văn hóa của mỗi dân tộc mà còn là sự phát triển của các dân tộc, của các nền văn hóa trong thế giới nhân loại. Dòng chảy của sáng tạo và phát triển văn hóa là liên tục từ quá khứ đến hiện tại và tương lai bắt đầu từ gia đình vì gia đình Việt Nam là một thiết chế nền tảng của xã hội Việt Nam truyền thống. Con đường đi của phát triển, văn minh, tiến bộ của dân tộc cũng như của thế giới và thời đại là con đường của sáng tạo, phát triển văn hóa, của hội nhập văn hóa mà trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, không một nước nào có thể ở bên ngoài tiến trình hội nhập để phát triển.

Biện chứng của mối quan hệ văn hóa gia đình với con người, con người với văn hóa gia đình là ở tương tác nhân - quả giữa chủ thể và đối tượng. Con người sáng tạo ra văn hóa và chính văn hóa lại tác động sâu xa, rộng lớn tới phát triển con người, hoàn thiện nhân cách, nhân tính. Có thể nói, con người là giá trị văn hóa cao nhất, giá trị của mọi giá trị. Hoàn thiện nhân cách, nhân tính của con người là sứ mệnh của văn hóa, là nỗ lực cao nhất mà sáng tạo văn hóa cần đạt đến và mọi thành quả, thành tựu của văn hóa đều góp phần vào sự bộc lộ các năng lực người, khẳng định sức mạnh bản chất người của con người trong phát triển, từ cá thể người, gia đình đến cộng đồng người trong dân tộc và trong nhân loại. Giáo sư Vũ Khiêu đã từng nhấn mạnh, văn hóa là tất cả những gì cho thấy nhân tính vượt lên trên thú tính. Hoàn thiện nhân tính, nhân cách con người rõ ràng là thước đo văn hóa. Đây là chỗ nói lên bản chất nhân văn đích thực của văn hóa, cũng là chỗ phân biệt văn hóa với phản văn hóa, trong đó văn hóa gia đình có vai trò to lớn. Trong bản chất của nó, văn hóa chỉ biểu đạt cái tốt đẹp, sự lương thiện và tử tế, sự chính trực và lẽ công bằng, trọng sự thật và lẽ phải, tôn trọng chân lý khoa học, đạo lý và đạo nghĩa ở đời và làm người. Văn hóa có cốt lõi của nó là đạo đức, mà đạo đức là gốc của nhân cách được hình thành bắt đầu từ văn hóa gia đình.

Sự phát triển bền vững của đất nước thực chất là phát triển bền vững con người mà muốn vậy, phải đặc biệt chú trọng thực hiện chiến lược phát triển văn hóa, môi trường văn hóa và văn hóa gia đình. Chỉ có tạo dựng môi trường xã hội lành mạnh, môi trường văn hóa lành mạnh, trong đó có văn hóa gia đình lành mạnh mới có thể tạo ra những con người mang nhân cách văn hóa, mới sáng tạo, sản sinh ra văn hóa vì con người, vì phát triển. Đúng như điều C. Mác nói, nếu con người là sản phẩm của hoàn cảnh thì phải làm cho hoàn cảnh ngày càng có tính người nhiều hơn, và sự phong phú của mỗi cá nhân (nhân cách) tùy thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ xã hội của nó, trong đó có văn hóa gia đình.

Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh

Để phát triển văn hóa gia đình và hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam theo đúng quan điểm, mục tiêu, phương hướng, giải pháp mà Đảng đã xác định, trong tình hình hiện nay của nước ta và trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, cần phải tập trung triển khai thực hiện những công việc cụ thể, thiết thực, có ích cho nước, có lợi cho dân, những việc làm thực tế, hợp với ý nguyện của lòng dân.

- Trước hết, phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vật chất, tinh thần từ công sức, mồ hôi nước mắt, sức sáng tạo của dân mà có được để phát triển kinh tế, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người dân, giải quyết nạn thất nghiệp đang nhức nhối trong xã hội hiện nay, bởi tình trạng hàng vạn thanh niên sinh viên tốt nghiệp, có học thức mà không có việc làm. An sinh là cái gốc của ổn định và phát triển, là tiền đề cho phát triển con người và văn hóa.

- Thực hành triệt để tiết kiệm, chống lãng phí và đẩy lùi tham nhũng để chăm lo cuộc sống cho người dân, nâng cao chất lượng cuộc sống và trình độ của dân, từ chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí, bảo đảm dân quyền để đi tới dân chủ. Đó là một tổng hợp chương trình, chính sách phát triển kinh tế, xã hội, đó còn là chính trị, là đường lối, chính sách. Chính trị vì dân, cũng là văn hóa trọng dân, trọng pháp rất cần trong lúc này, khi lòng dân không yên, do không ít cán bộ suy thoái, hư hỏng.

- Không có văn hóa và văn hóa chính trị nào cao quý hơn khi thực hiện cho được một nguyên tắc, một phương châm hành động “làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân”, có an dân thì mới đo được kết quả của việc trị quốc. Có quốc thái thì sẽ có dân an. Từ bài học của ông cha ta trong lịch sử đến Di sản cao quý của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà kế thừa, thực hiện và phát triển vào lúc này thì mọi việc lớn và nhỏ phải luôn luôn vì dân, phải coi “dĩ công vi thượng” là văn hóa đạo đức, văn hóa chính trị hàng đầu trong giáo dục, rèn luyện cán bộ đảng viên, trong chỉnh đốn Đảng, trong cải cách thể chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Giáo dục đạo đức, đặc biệt là giáo dục liêm sỉ, lương tâm, danh dự, giáo dục ý thức trách nhiệm đi liền với thực hành đạo đức, lối sống liêm khiết phải được coi trọng trong văn hóa của Đảng, của các tổ chức công quyền.

- Cùng với giáo dục phải siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tính tôn nghiêm luật pháp, áp dụng chế tài mạnh mẽ để trừng phạt tất cả những người, những việc gây hại tới dân. Đó là sức mạnh của văn hóa, của chính trị bảo đảm “quang minh chính đại” theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những người tốt phải được tôn vinh, những kẻ xấu phải bị phê phán, lên án, sàng lọc khỏi bộ máy để dân tin, dân tự mình bảo vệ Đảng và chế độ. Sức mạnh của văn hóa và giá trị nhân cách con người, nhất là văn hóa trong Đảng và nhân cách văn hóa của mỗi cán bộ đảng viên, ở các cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước và các đoàn thể luôn là chỉ số quan trọng để thuyết phục dân, lấy lại niềm tin của dân đối với Đảng, với chế độ. Tăng trưởng niềm tin của dân vào lúc này có tác dụng như một động lực phát triển, nó minh chứng cho sự trong sạch, vững mạnh của Đảng từ tác động của văn hóa. Tăng trưởng niềm tin của dân còn quan trọng và khó khăn hơn nhiều so với tăng trưởng kinh tế.

Đẩy mạnh giáo dục văn hóa gia đình, giáo dục lý tưởng, lẽ sống và rèn luyện đạo đức cho thế hệ trẻ phải được chú trọng, góp phần quan trọng vào công cuộc chấn hưng đạo đức, phát triển văn hóa ở nước ta. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp tục thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam; chương trình hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình; chương trình quốc gia về giáo dục đời sống gia đình; Đề án phát huy giá trị tốt đẹp các mối quan hệ gia đình và hỗ trợ gia đình phát triển hạnh phúc bền vững; nhân rộng mô hình phòng, chống bạo lực gia đình; tuyên truyền đào tạo lối sống trong gia đình Việt Nam gắn với thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước” và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng./.

-----------------------------------------------------------------------

(1) Khái niệm của Lê Ngọc Văn trong bài báo “Văn hóa gia đình”

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương, khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998