Phát huy giá trị của mỹ thuật truyền thống trong phát triển công nghiệp văn hoá Việt Nam hiện nay

TS Phan Thanh Sơn
Trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp
04:33, ngày 29-09-2025

TCCS - Mỹ thuật truyền thống với những giá trị đặc trưng riêng đã góp phần quan trọng tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử. Trong bối cảnh phát triển công nghiệp văn hoá hiện nay, phát huy tối đa giá trị của mỹ thuật truyền thống là yêu cầu cấp thiết, để những tác phẩm vừa mang hơi thở hiện đại, có giá trị kinh tế, vừa giúp các giá trị truyền thống được giữ gìn, phát huy.

Nét thăng hoa cho tác phẩm sơn mài _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Giá trị của mỹ thuật truyền thống trong dòng chảy văn hoá Việt Nam hiện đại

Hình thành và phát triển qua hàng ngàn năm lịch sử, mỹ thuật truyền thống với những cảm xúc và kỹ thuật thể hiện riêng luôn giữ vững vị thế trong dòng chảy văn hóa dân tộc. Các sản phẩm, tác phẩm mỹ thuật truyền thống là sự kết tinh từ kinh nghiệm, kỹ năng và tinh thần sáng tạo của người nghệ nhân qua nhiều thế hệ. Đó không chỉ đơn thuần là sản phẩm vật chất, mà chứa đựng giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá sâu sắc, tạo nên bản sắc đặc trưng của văn hóa Việt Nam.

Năm 1924, sự ra đời của Trường Mỹ thuật Đông Dương (tiền thân của Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam hiện nay) đã mở ra thời kỳ mới cho mỹ thuật Việt Nam. Các họa sĩ giai đoạn này được đào tạo chuyên sâu về nghệ thuật và hội hoạ. Sản phẩm từ các nghề thủ công truyền thống, như lụa, in mộc bản, sơn, đục đá, đúc đồng… dần được ứng dụng theo phương pháp khoa học của nghệ thuật phương Tây kết hợp với nghệ thuật truyền thống, vừa làm phong phú hơn nghệ thuật dân tộc, vừa cho ra đời những tác phẩm phù hợp với thị hiếu thời đại. 

Năm 1949, Trường Quốc gia mỹ nghệ (nay là Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp) được thành lập dựa trên nền tảng các ngành nghề thủ công truyền thống của Việt Nam. Đây là dấu mốc đánh dấu bước phát triển quan trọng trong lĩnh vực đào tạo mỹ thuật công nghiệp ở nước ta. Thời gian này, khái niệm mỹ thuật truyền thống chính thức song hành cùng với mỹ thuật hiện đại, giao thoa và ảnh hưởng lẫn nhau. Với cảm hứng sáng tạo từ thực tiễn sinh động, nhiều nghệ sĩ đã sử dụng chất liệu truyền thống kết hợp với ứng dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại, tìm tòi thể nghiệm hướng đi mới, tạo nên diện mạo và giá trị mới cho các tác phẩm mỹ thuật truyền thống. Bên cạnh tính nghệ thuật, thẩm mỹ, các tác phẩm mỹ thuật truyền thống, nhất là sản phẩm từ các ngành nghề thủ công mỹ nghệ có thêm yếu tố ứng dụng cao, phục vụ nhu cầu của đời sống hằng ngày.

Việc đưa các yếu tố ứng dụng vào tác phẩm vừa làm phong phú thêm mỹ thuật truyền thống, vừa mở ra hướng đi mới cho mỹ thuật Việt Nam. Nhiều sản phẩm sử dụng các chất liệu truyền thống, như sơn mài, gốm, sứ, mây, tre, đồng, gỗ, vải..., cùng với xu hướng tạo hình đa chất liệu, kết hợp với khoa học - công nghệ tiên tiến đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và thẩm mỹ ngày càng cao của nhân dân. Mỹ thuật ứng dụng góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế hàng hóa, không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà còn khẳng định bản sắc văn hóa Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Đến nay, mỹ thuật ứng dụng đã phát triển mạnh mẽ, trở thành ngành nghề quan trọng trong đời sống hiện đại, một mũi nhọn của ngành công nghiệp văn hoá ở Việt Nam.

Mỹ thuật truyền thống với những giá trị đặc trưng đang ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong sự phát triển của ngành công nghiệp văn hoá. Quyết định số 1253/QĐ-TTg, ngày 25-7-2014, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Quy hoạch phát triển mỹ thuật đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” nêu rõ: Phát triển mỹ thuật nhằm góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học; đóng góp cho phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế. Trong quy hoạch phát triển mỹ thuật cần bảo tồn và phát huy các giá trị mỹ thuật truyền thống; đồng thời, xây dựng và phát triển các giá trị mỹ thuật hiện đại(1).

Vai trò của các ngành công nghiệp văn hóa ngày càng được coi trọng nhờ những đóng góp đối với phát triển kinh tế và bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá dân tộc. Ngày 18-6-2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Chiến lược của Nhà nước ta khẳng định, các ngành công nghiệp văn hóa là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút tối đa nguồn lực từ các doanh nghiệp và xã hội để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Chiến lược đề ra mục tiêu, ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm đạt khoảng 80 triệu USD (đến năm 2020) và 125 triệu USD (đến năm 2030). Để đạt được mục tiêu này, ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, trong đó mỹ thuật ứng dụng là nòng cốt cần có nguồn nhân lực chất lượng cao, có tư duy mới mẻ, hiện đại, có khả năng sáng tạo ra các tác phẩm tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Kết luận số 76-KL/TW, ngày 4-6-2020, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, đề ra các nhiệm vụ, giải pháp về tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, trong đó chỉ rõ: “Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Tạo nhận thức sâu sắc của toàn xã hội về vị trí, vai trò của các ngành công nghiệp văn hóa. Phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường; tăng cường và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư để phát triển công nghiệp văn hóa. Có giải pháp đồng bộ, tổ chức thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam”(2).

Trên phương diện nghệ thuật, Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng tự do sáng tạo của người nghệ sĩ, xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù đối với văn học - nghệ thuật và văn nghệ sĩ phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Quan điểm phát triển văn hoá, nghệ thuật là vừa chủ động tiếp thu tinh hoa nghệ thuật thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại, vừa giữ gìn và làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc. Sự phát triển của mỹ thuật hiện đại, đặc biệt là mỹ thuật ứng dụng, mũi nhọn của công nghiệp văn hoá hiện nay cũng trên quan điểm này. Cùng với việc tiếp thu cái mới, các giá trị của mỹ thuật truyền thống như giá trị nghệ thuật, lịch sử và văn hoá, giá trị thẩm mỹ, giáo dục, kinh tế, xã hội… cần tiếp tục được bảo tồn, phát huy.  

Nhìn lại sự phát triển của mỹ thuật Việt Nam cho thấy, bên cạnh những kết quả đã đạt được trong phát huy giá trị mỹ thuật truyền thống, vẫn còn những tác phẩm, sản phẩm mới chỉ dừng lại ở việc sao chép vốn cổ, chưa cảm nhận được đầy đủ ý nghĩa lịch sử, văn hoá của hình tượng nghệ thuật. Một số họa sĩ, nhà thiết kế chủ quan trong sáng tạo, chưa tiếp cận thị hiếu, nhu cầu thẩm mỹ của công chúng trong đời sống xã hội liên tục biến đổi. Việc đưa các sản phẩm mỹ thuật truyền thống tiếp cận thị trường còn nhiều khó khăn. Việc đề cao lợi nhuận, sản xuất hàng loạt theo nhu cầu đại trà chưa chú trọng đến tính thẩm mỹ, giá trị sâu sắc của mỹ thuật truyền thống trong các tác phẩm, sản phẩm; vấn đề vi phạm bản quyền, tâm lý “sính ngoại” của một bộ phận người tiêu dùng Việt Nam… đang là những vấn đề đặt ra cho phát triển mỹ thuật Việt Nam trong tổng thể các ngành công nghiệp văn hoá hiện nay.

Nghệ nhân làng nghề gốm Bát Tràng trình diễn làm gốm tại Triển lãm gốm thủ công truyền thống Bát Tràng và gốm Đông Hòa tại phố cổ Hà Nội_Ảnh: TTXVN

Một số giải pháp phát huy giá trị mỹ thuật truyền thống trong phát triển công nghiệp văn hóa hiện nay

Đại hội XIII của Đảng nêu nhiệm vụ: “Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”. Để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ trên, phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam, trong đó có phát huy các giá trị của mỹ thuật truyền thống trong quá trình giao lưu, hội nhập và hợp tác quốc tế, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, tăng cường các hoạt động truyền thông, quảng bá, tuyên truyền thường xuyên để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, ngành, địa phương và toàn xã hội về việc bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống trong phát triển công nghiệp văn hóa hiện nay. Nhận thức rõ quan điểm phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đặt trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát huy tối đa nguồn lực văn hóa, con người Việt Nam, tạo sức mạnh nội sinh, trở thành động lực quan trọng góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển bền vững đất nước. Qua đó huy động sự tham gia của toàn xã hội, cộng đồng doanh nghiệp vào phát triển các ngành công nghiệp văn hoá.

Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách về phát triển công nghiệp văn hóa. Để các giá trị của mỹ thuật truyền thống được khai thác tối đa, góp phần mang lại hiệu quả kinh tế cho mỗi tác phẩm, sản phẩm nghệ thuật, cần bổ sung và hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh sản phẩm, dịch vụ văn hóa. Nâng cao hiệu quả việc quản lý và thực thi pháp luật về quyền tác giả và các quyền liên quan, tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý trong lĩnh vực này để thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Bên cạnh đó, cần ban hành các chính sách ưu đãi về vốn, thuế, đất đai, khuyến khích sáng tạo đối với văn nghệ sĩ, các doanh nghiệp khởi nghiệp; có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp mỹ thuật truyền thống trong quá trình tham gia và phát triển thị trường quốc tế.

Rà soát, điều chỉnh, bổ sung cơ chế phối hợp có hiệu quả giữa các bộ, ngành, bảo đảm đồng bộ, tránh chồng chéo, trùng lặp để tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp bảo trợ, tài trợ cho văn hóa và các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm văn hóa, dịch vụ văn hóa, du lịch. Củng cố mô hình tổ chức, nâng cao năng lực của các trung tâm bảo vệ quyền tác giả và các tổ chức dịch vụ quyền tác giả. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê và cơ sở dữ liệu về các ngành công nghiệp văn hóa.

Ba là, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực trong các ngành công nghiệp văn hóa. Xây dựng kế hoạch về phát triển nguồn nhân lực, thúc đẩy trao đổi kiến thức, nâng cao năng lực chuyên môn, đào tạo nguồn nhân lực chuyên nghiệp cho các ngành công nghiệp văn hóa. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Rà soát toàn bộ hệ thống các trường đào tạo văn hóa, văn nghệ, đổi mới và hiện đại hóa quy trình, nội dung, phương thức đào tạo để trong 5 - 10 năm tới khắc phục về cơ bản sự thiếu hụt đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa”(3).

Các cơ sở đào tạo nghệ thuật, nhất là nội dung về mỹ thuật truyền thống cần đổi mới nội dung, chương trình đào tạo thiết thực, linh hoạt và hiện đại, nâng cao năng lực lý luận, phê bình, cải thiện kỹ năng tư duy và thực hành sáng tạo các sản phẩm, tác phẩm mỹ thuật truyền thống. Tăng cường liên kết, hợp tác để các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu, cơ sở sản xuất tham gia có hiệu quả vào phát triển nguồn nhân lực cho các ngành công nghiệp văn hóa. Có chế độ đãi ngộ phù hợp thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, được đào tạo bài bản, có kinh nghiệm chuyên môn từ các nước có trình độ phát triển cao về công nghiệp văn hóa đến Việt Nam làm việc. Đào tạo, bồi dưỡng trình độ, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ quản lý, thực thi quyền tác giả, quyền liên quan, hình thành đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực này để thúc đẩy các hoạt động sáng tạo, bảo hộ thành quả sáng tạo và phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.

Bốn là, tăng cường chuyển đổi số, ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ trong các hoạt động sáng tạo, sản xuất, phổ biến, lưu giữ các sản phẩm văn hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ văn hóa, góp phần xây dựng thương hiệu doanh nghiệp, sản phẩm, dịch vụ văn hóa có chất lượng. Đây là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay. Ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến không chỉ giúp phục hồi, bảo tồn, phát huy các giá trị của mỹ thuật truyền thống trong đời sống, mà còn góp phần lan tỏa, nâng tầm giá trị văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế.

Năm là, thu hút và hỗ trợ đầu tư cho phát triển công nghiệp văn hoá. Xây dựng các chính sách ưu đãi, xúc tiến đầu tư phát triển các ngành công nghiệp văn hóa sẵn có lợi thế, tiềm năng từ bề dày lịch sử của mỹ thuật truyền thống. Khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước tăng cường đầu tư vào các hoạt động sáng tạo văn hóa trên nền tảng của mỹ thuật truyền thống; phát triển mạng lưới doanh nghiệp, hướng tới hình thành một số tập đoàn lớn về công nghiệp văn hóa ở lĩnh vực sáng tạo và sản xuất mỹ thuật truyền thống.

Cần tạo môi trường pháp lý thuận lợi, hỗ trợ đầu tư phát triển nguồn nhân lực văn hoá, đa dạng hóa các mô hình đầu tư, khuyến khích hình thành và phát triển các loại quỹ đầu tư trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật. Tăng cường vai trò của các tổ chức hiệp hội ngành nghề trong việc đầu tư, hỗ trợ phát triển các hoạt động sáng tạo, sản xuất, phân phối, phổ biến và tiêu dùng các sản phẩm mỹ thuật truyền thống. Huy động các nguồn lực trong xã hội vào hoạt động sáng tạo mỹ thuật truyền thống, tiến tới hình thành và phát triển 3 trung tâm công nghiệp văn hóa tại Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và một số trung tâm gắn với các di sản văn hóa thiên nhiên thế giới.

Sáu là, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa. Nước ta bước vào quá trình phát triển công nghiệp văn hóa muộn hơn so với một số nước trong khu vực và trên thế giới, do vậy, việc mở rộng giao lưu, hợp tác, học tập và chia sẻ kinh nghiệm từ các quốc gia là yêu cầu cấp thiết. Trong đó, chú trọng vào các nội dung về kỹ thuật, công nghệ, phương thức quản lý, chương trình đào tạo và xây dựng mô hình phát triển công nghiệp văn hóa ở các quốc gia đã thành công ở lĩnh vực này.

Chủ động tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa, quảng bá Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế. Tăng cường tổ chức các sự kiện quốc tế về văn hóa - nghệ thuật nói chung, mỹ thuật truyền thống nói riêng tại Việt Nam, thu hút sự tham gia của các nghệ sĩ và các tổ chức văn hóa - nghệ thuật uy tín trên thế giới. Bên cạnh đó, cần xây dựng và triển khai các chương trình quảng bá thương hiệu sản phẩm, tác phẩm mỹ thuật truyền thống, dịch vụ văn hóa - nghệ thuật truyền thống, các thương hiệu của Việt Nam, những tài năng tiêu biểu trong lĩnh vực để bạn bè quốc tế biết và tìm hiểu về văn hoá, nghệ thuật Việt Nam.

Phát triển công nghiệp văn hóa đang diễn ra mạnh mẽ, là xu thế và dần trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới. Với nhiều tiềm năng, lợi thế, Việt Nam đang từng bước phát triển các ngành công nghiệp văn hóa gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị mỹ thuật truyền thống, không chỉ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế đất nước mà còn góp phần khẳng định, lan tỏa một hình ảnh Việt Nam độc đáo, giàu bản sắc ra thế giới./.

------------------------------------

(1) Xem: Quyết định số 1253/QĐ-TTg, ngày 25-7-2014, của Thủ tướng Chính phủ,  “Phê duyệt Quy hoạch phát triển mỹ thuật đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”.
(2) Xem: Kết luận số 76-KL/TW, ngày 4-6-2020, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 147