TCCSĐT - Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước là nhân dân. Nhân dân là người làm chủ Nhà nước. Đây là một đòi hỏi tất yếu nảy sinh từ nhu cầu chính đáng và tự nhiên của người chủ. Bởi, nếu không kiểm soát được quyền lực nhà nước thì quyền lực nhà nước sẽ bị tha hóa, nhân dân cũng sẽ bị mất quyền hoặc bị lạm quyền từ phía Nhà nước.
Kiến tạo khung pháp lý cho cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước của Hiến pháp Việt Nam năm 2013

Trước hết, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã tạo nền tảng pháp lý cho cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước dựa trên việc phân công mạch lạc nhiệm vụ, quyền hạn của các quyền để tạo cơ sở cho cơ chế kiểm soát quyền lực; ngoài ra, còn tạo lập cơ sở hiến định để hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định được quy định tại Điều 119. Đồng thời, Hiến pháp giao cho: “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”. Như vậy, Hiến pháp 2013 tuy chưa hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp chuyên trách như Nghị quyết của Đảng đã đề ra, nhưng với quy định của Điều 119 đã tạo cơ sở hiến định để xây dựng một cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định. Thể chế bảo vệ hiến pháp đã xác định những nguyên tắc chỉ đạo hoạt động, nội dung và thẩm quyền của các chủ thể tham gia thể chế bảo vệ hiến pháp.

Tiếp theo, nói đến cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước, điều quan trọng trước tiên là tổ chức bộ máy nhà nước phải được phân công, phân nhiệm một cách cụ thể, rõ ràng giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Có sự phân công, phân nhiệm mới có cơ sở để tìm ra cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước phù hợp. Nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, thì đồng thời nhân dân cũng là chủ thể phân công quyền lực nhà nước, chứ không phải Quốc hội là chủ thể phân công quyền lực nhà nước như trước đây. Theo nhận thức đó, Hiến pháp năm 2013 đã có một bước tiến mới trong việc phân công quyền lực nhà nước. Việc thừa nhận các cơ quan khác nhau thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một đổi mới quan trọng, tạo điều kiện để quy định nhiệm vụ, quyền hạn một cách đúng đắn, mạch lạc giữa các cơ quan Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây chính là cơ sở để tạo cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân, là căn cứ để nhận xét, đánh giá hiệu lực và hiệu quả thực hiện quyền lực nhà nước của mỗi quyền; đồng thời khắc phục được sự trùng lắp, dựa dẫm, ỷ lại hoặc không rõ trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước và xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy nhà nước.

Tuy nhiên hiện nay ở nước ta, cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp chưa được chế định rõ. Trên thực tế, tổ chức bộ máy nhà nước và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy pháp quyền xã hội chủ nghĩa, như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Vì vậy, cần tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, bảo đảm các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều được kiểm soát.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Một là, thực hiện cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực thi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp

Xét từ góc độ kiểm soát quyền lực, việc xác định giới hạn hoạt động lập pháp của Quốc hội và điều hành của Chính phủ tạo cơ sở xác định rõ mối quan hệ quyền lực trên các khía cạnh sau: 1) Phạm vi để Quốc hội (cơ quan lập pháp) thể hiện trách nhiệm trong việc hiện thực hóa nguyện vọng chính đáng của nhân dân, đường lối của Đảng thành luật; 2) Từ phía cơ quan hành pháp, việc xác định ranh giới lập pháp rõ ràng là điều kiện quan trọng để hoạt động hành pháp không “lấn sân” hoạt động lập pháp; 3) Giới hạn rõ ràng của quyền lập pháp là điều kiện để đánh giá tính chủ động và hợp pháp của các quyết định và hành vi trong lĩnh vực hành pháp.

Mối liên hệ giữa cơ quan lập pháp và tư pháp, cơ quan hành pháp và tư pháp cần xác định theo hướng khẳng định vị trí của cơ quan tư pháp. Từ đó hạn chế sự giám sát từ phía các cơ quan lập pháp đối với Tòa án, phù hợp hơn với nguyên tắc của nhà nước pháp quyền về sự độc lập của Tòa án. Theo đó, cần chế định, mở rộng thẩm quyền phán quyết của Tòa án không chỉ với các văn bản của cơ quan hành pháp mà còn với các văn bản quy phạm pháp luật khác.

Đối với Quốc hội:
Hoàn thiện cơ chế giám sát của Quốc hội theo hướng bổ sung, quy định rõ và tổ chức tốt việc thực hiện các hình thức giám sát của Quốc hội, như: chất vấn; giám sát văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; giám sát thông qua việc thành lập các đoàn giám sát tại địa phương; giám sát giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân; xem xét báo cáo; thành lập Ủy ban lâm thời; điều trần; bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu;… Cụ thể trong giải pháp hoàn thiện cơ chế giám sát của Quốc hội bao gồm các nhiệm vụ cụ thể sau:

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế pháp lý về hoạt động giám sát. Cần tạo được một cơ chế pháp lý đầy đủ, phù hợp để các chủ thể giám sát có điều kiện thực hiện các thẩm quyền của mình; có các chế tài ràng buộc các đối tượng chịu giám sát có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh các kiến nghị; quy định cụ thể quy trình, thủ tục và điều kiện thực hiện đầy đủ quy trình, thủ tục trong hoạt động giám sát. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về giám sát sẽ làm cho các hoạt động thi hành pháp luật, áp dụng pháp luật của các cơ quan hành pháp, tư pháp được thuận lợi và minh bạch hóa quá trình hoạt động.

Thứ hai, hoàn thiện các quy định về chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức giám sát. Cần bổ sung các quy định cụ thể về quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể giám sát, đối tượng chịu sự giám sát và đặc biệt là đối tượng có trách nhiệm giải quyết kiến nghị thông qua hoạt động giám sát.

Thứ ba, nâng cao năng lực của các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Đại biểu Quốc hội là nhân tố quan trọng tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc thực hiện các chức năng của Quốc hội. Vì vậy, cần đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ kiến thức, kỹ năng cho đại biểu Quốc hội và các ứng viên tiềm năng nhằm nâng cao tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội; tiếp tục cải thiện vị thế, tạo điều kiện, động lực giám sát gắn với trách nhiệm của các đại biểu Quốc hội;

Thứ tư, bảo đảm các điều kiện để nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội. Trong hoạt động giám sát của Quốc hội, nguồn lực vật chất là một trong những yếu tố không thể thiếu để tăng cường năng lực giám sát của Quốc hội. Cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng chế độ định mức phục vụ cho hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu quốc hội, trong đó có định mức kinh phí để đại biểu quốc hội được sử dụng thuê chuyên gia phục vụ cho hoạt động lập pháp và hoạt động giám sát, phù hợp với chế độ định mức chung trong hoạt động của Quốc hội.

Thứ năm, tăng cường năng lực tham mưu tư vấn của các cơ quan tham mưu, cá nhân, chuyên gia trong các cơ quan nhà nước và xã hội để tạo cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn trong hoạt động giám sát của Quốc hội.
Cần tăng cường năng lực cho đội ngũ tham mưu giúp việc nhất là việc có văn phòng giúp việc riêng cho đại biểu Quốc hội cần được xem xét. Cần đầu tư, tăng cường đội ngũ chuyên gia, bộ máy giúp việc, chú trọng nâng cao trình độ của đội ngũ chuyên viên trong Văn phòng Quốc hội, của các đoàn đại biểu Quốc hội; sử dụng, ý kiến chuyên gia ở các cơ quan, tổ chức nghiên cứu độc lập.

Đối với Chính phủ: Đổi mới và hoàn thiện các hình thức kiểm tra, giám sát, thanh tra trong hệ thống các cơ quan hành pháp và cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính, thanh tra. Cụ thể trong giải pháp hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, thanh tra của Chính phủ bao gồm các nhiệm vụ cụ thể:

- Hoàn thiện cơ chế trong hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra trong nội bộ hệ thống hành chính theo ngành dọc đối với các cơ quan, đơn vị trực thuộc cơ quan cấp trên quản lý; hoàn thiện pháp luật về kiểm tra, giám sát, thanh tra và xử lý vi phạm theo chức năng của hệ thống hành chính; tăng cường hoạt động thanh tra của thanh tra nhà nước, thanh tra nhà nước chuyên ngành đối với mọi hoạt động hành chính nhà nước và các cơ quan, đơn vị sự nghiệp.

- Hoàn thiện cơ chế kiểm soát trong hệ thống hành chính nhà nước. Thông qua quyền của Thủ tướng, đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trái với Hiến pháp, pháp luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ. Quyền này cũng được áp dụng tương tự đối với chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện đối với các nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp thấp hơn. Như vậy, ở đây xuất hiện sự kiểm soát của cơ quan hành chính cấp trên đối với cơ quan quyền lực nhà nước cấp dưới. Trong hệ thống hành chính nhà nước cơ quan hành chính cấp trên kiểm soát hoạt động của cơ quan hành chính cấp dưới thông qua chế độ trách nhiệm và báo cáo của cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới với cơ quan hành chính nhà nước cấp trên, thông qua quyền đình chỉ, bãi bỏ văn bản do cơ quan hành chính cấp dưới ban hành của cơ quan hành chính cấp trên.

- Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, thanh tra liên ngành đối với các cơ quan nhà nước. Hoạt động hành chính nhà nước là hoạt động quản lý nhà nước đối với tất cả các ngành, các lĩnh vực, do đó hệ thống hành chính thực hiện sự kiểm tra theo chức năng, thanh tra liên ngành đối với các cơ quan khác thuộc nhà nước trong một số lĩnh vực nhất định của quản lý nhà nước, chẳng hạn trong lĩnh vực tài chính, kinh tế, môi trường, đất đai,…

Đối với Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao: Cụ thể trong giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát hoạt động tư pháp bao gồm các nhiệm vụ cụ thể sau:

Hoàn thiện phương thức tổ chức kiểm tra, giám sát. Phương thức kiểm tra, giám sát bao gồm toàn bộ phương pháp và cách thức tổ chức kiểm tra, giám sát. Chủ thể kiểm tra, giám sát là các cơ quan, tổ chức không phải là cơ quan tư pháp, cán bộ công chức tư pháp. Thể hiện phương pháp kiểm tra, giám sát khách quan, không phải là “tự kiểm tra, tự giám sát” “vừa đánh trống vừa thổi còi”.

- Hoàn thiện yếu tố pháp lý. Đó là hệ thống quy phạm pháp luật chứa đựng nguyên lý tổ chức vận hành của toàn bộ cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động tư pháp. Hệ thống các quy phạm pháp luật này điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quan hệ kiểm tra, giám sát hoạt động tư pháp. Yếu tố này có tính chất “là môi trường pháp lý” ràng buộc các chủ thể kiểm tra, giám sát hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Cũng như các chủ thể bị kiểm tra, giám sát phải chịu sự kiểm tra, giám sát nghiêm túc. Pháp luật về kiểm tra, giám sát hoạt động tư pháp quy định các biện pháp pháp lý để các chủ thể sử dụng khi “áp dụng pháp luật” trong quá trình thực hiện kiểm tra, giám sát.

- Mối quan hệ tương tác giữa chủ thể kiểm tra, giám sát và đối tượng kiểm tra, giám sát.
Đây là yếu tố hành vi thể hiện quan hệ pháp luật kiểm tra, giám sát trong thực tế. Đó là các chuỗi hành vi trong quá trình kiểm tra, giám sát hợp pháp của chủ thể kiểm tra, giám sát. Đó là các nghĩa vụ pháp lý, tính chịu hậu quả của các chủ thể bị kiểm tra, giám sát. Trong đó có việc thực hiện trách nhiệm pháp lý bao gồm trách nhiệm chính trị, trách nhiệm kỷ luật nhà nước, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm bồi thường dân sự, trách nhiệm hình sự. Yếu tố này còn hàm chứa tính hiệu lực, hiệu quả, tính mục đích được thực hiện của cơ chế pháp lý kiểm tra, giám sát hoạt động tư pháp.

- Hoàn thiện chức năng kiểm soát các hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân. Trên thực tế, Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, không trực tiếp quy định quyền kiểm soát của Tòa án đối với các cơ quan khác của nhà nước, quyền này của Tòa án chỉ có thể được suy ra rằng hoạt động kiểm soát của Tòa án đối với các cơ quan khác của nhà nước được thực hiện thông qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình, đặc biệt là khi xét xử các vụ án hành chính. Thông qua hoạt động xét xử, tòa án có quyền đề nghị, hay yêu cầu các cơ quan, tổ chức áp dụng các biện pháp để khắc phục, loại trừ những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm, vi phạm pháp luật, hoặc hoàn thiện pháp luật, chính sách, cải tiến phương thức quản lý. Thông qua hoạt động xét xử hành chính, Tòa án thực hiện hoạt động giám sát của mình đối với hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước và các cơ quan khác của nhà nước trong việc ban hành các quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính. Nhưng Tòa án chỉ có quyền phán quyết về tính hợp pháp hay không hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính.

Hai là, thực hiện đồng bộ, nhất quán cơ chế bảo vệ Hiến pháp

Điều 119 Hiến pháp 2013 quy định: Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý. Cùng với đó, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”. Như vậy, Hiến pháp 2013 đã xác định trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần có cơ chế bảo vệ hiến pháp và trao quyền quy định về cơ chế bảo vệ hiến pháp cho Quốc hội.

Việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế bảo vệ hiến pháp để thi hành Điều 119 Hiến pháp 2013 là nhiệm vụ quan trọng, cần thiết và phải đáp ứng các yêu cầu sau:

- Bảo đảm tính độc lập và chuyên trách của cơ quan bảo vệ Hiến pháp

Bảo vệ Hiến pháp là bảo vệ chủ quyền nhân dân, bảo vệ chế độ chính trị, nền tảng pháp lý của Nhà nước... Do đó, bảo vệ Hiến pháp là hoạt động đặc biệt, phải được tiến hành bởi chủ thể đặc biệt - cơ quan bảo vệ Hiến pháp. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan bảo vệ Hiến pháp có chức năng, nhiệm vụ: 1) Xem xét, phán quyết xử lý văn bản vi hiến; 2) Giải quyết tranh chấp và vi phạm Hiến pháp liên quan đến tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước; 3) Giải thích Hiến pháp; 4) Bảo vệ quyền con người, quyền và tự do hiến định của công dân; 5) Giải quyết vi phạm Hiến pháp liên quan đến các quan chức nhà nước cao cấp hoặc đảng chính trị. Để thực hiện được các chức năng nêu trên, cơ quan bảo vệ Hiến pháp phải độc lập về tổ chức và hoạt động so với các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Hoạt động của cơ quan bảo vệ Hiến pháp phải mang tính chuyên trách với những chức năng, nhiệm vụ riêng.

- Đồng bộ, nhất quán các quy định về bảo vệ Hiến pháp


Để điều chỉnh các quan hệ pháp lý phát sinh trong quá trình bảo vệ Hiến pháp cần có luật về cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Đây là sự thể chế hóa, cụ thể hóa các nguyên tắc, quy định của Hiến pháp đối với cơ chế bảo vệ hiến pháp. Luật về cơ chế bảo vệ Hiến pháp phải điều chỉnh toàn diện các vấn đề như: cách thức thành lập, nội dung hoạt động; chức năng, thẩm quyền, cơ cấu tổ chức của cơ quan bảo vệ Hiến pháp; phương pháp, thủ tục tiến hành các hoạt động bảo vệ hiến pháp; những biện pháp pháp lý mà cơ quan bảo vệ hiến pháp có thể áp dụng đối với những đối tượng đã có hành vi vi hiến...Ngoài ra, cơ chế bảo vệ hiến pháp cũng cần được tổ chức và vận hành trên cơ sở những quy định, quy tắc nội bộ của cơ quan bảo vệ hiến pháp.

- Phương thức vận hành của cơ chế bảo vệ Hiến pháp phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi thẩm quyền của cơ quan bảo vệ Hiến pháp


Để bảo vệ Hiến pháp có hiệu quả, đặc biệt là với các hoạt động phán quyết và xử lý những văn bản, hành vi vi hiến trong tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước, cơ chế bảo vệ Hiến pháp phải tổ chức và hoạt động theo phương thức riêng, khác với phương thức của các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp. Phương thức đó phải phù hợp với vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ và phạm vi thẩm quyền của cơ quan bảo vệ Hiến pháp. Cơ quan bảo vệ hiến pháp chuyên trách, độc lập, vừa mang tính chính trị, vừa mang tính pháp lý, vì vậy phương thức hoạt động đó có nhiều sự khác biệt so với phương thức bảo vệ Hiến pháp thông qua cơ quan chức năng thông thường. Chủ thể của những hành vi vi phạm Hiến pháp chủ yếu là chủ thể mang tính công quyền, chế tài trách nhiệm có thể áp dụng đối với những chủ thể đó là trách nhiệm chính trị pháp lý. Do đó, hoạt động bảo vệ Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải được tiến hành theo phương thức đặc thù. Ngoài ra, phương thức bảo vệ Hiến pháp phải phù hợp với truyền thống và trình độ văn hóa, pháp lý của người dân để bảo đảm tính khả thi.

Phương thức vận hành của cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện cụ thể thông qua các hình thức, phương pháp, quy trình, thủ tục bảo đảm tính công khai, minh bạch, chính xác, khách quan, kịp thời và hiệu quả.

Ba là, đồng bộ hóa cơ chế kiểm soát chéo trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp


- Hoàn thiện cơ chế kiểm soát của cơ quan lập pháp đối với cơ quan hành pháp và tư pháp cũng tức là hoàn thiện cơ chế kiểm soát tối cao của Quốc hội, trước hết là cơ chế giám sát việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động nhà nước, không loại trừ hoạt động của một cơ quan nào của nhà nước, cụ thể là:

Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế rà soát, xem xét các báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội; của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Để bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật, tính hợp hiến và hợp pháp của các văn bản pháp luật do các cơ quan khác của nhà nước ban hành Quốc hội có quyền “Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của Quốc hội”. Quyền bãi bỏ văn bản của Quốc hội là kết quả của hoạt động giám sát về tính hợp hiến, hợp pháp đối với các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước khác ban hành. Để bảo đảm quyền giám sát tối cao của Quốc hội, khi Quốc hội không họp, Hiến pháp trao cho cơ quan thường trực của Quốc hội là Ủy ban thường vụ Quốc hội chức năng giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Thứ hai, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực đối với các cơ quan của nhà nước của Quốc hội thông qua quyền chất vấn của các đại biểu Quốc hội đối với Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực thông qua chế độ trách nhiệm báo cáo của Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao trước Quốc hội, đồng thời thông các phiên chất vấn công khai, điều trần khoa học về các hoạt động tư pháp trước Quốc hội để tăng cường minh bạch, tính chính xác, có hiệu lực, hiệu quả của những hoạt động tư pháp đáp ứng được yêu cầu của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền.

- Hoàn thiện cơ chế kiểm soát của cơ quan hành pháp đối với cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp.

Cơ chế kiểm soát giữa cơ quan hành pháp trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được hình thành, xác lập trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam từ khi lập nước tới nay và cơ chế này ngày càng được hoàn thiện về mặt pháp lý và thực tiễn, tuy vậy cũng còn nhiều vấn đề cần phải được hoàn thiện, bổ sung về mặt thể chế quy định và thể chế tổ chức thực hiện.

Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế cơ quan hành pháp tự kiểm soát trong nội bộ hệ thống hành pháp theo nguyên tắc phân công, phân cấp, phân nhiệm, hoạt động kiểm tra, giám sát theo chức năng của hệ thống hành pháp; hoạt động thanh tra của thanh tra nhà nước, thanh tra nhà nước chuyên ngành đối với mọi hoạt động hành pháp nhà nước.

Thứ hai, hoàn thiện cơ chế kiểm soát đối với cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương thông qua quyền của Thủ tướng đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ. Như vậy, ở đây xuất hiện sự kiểm soát của cơ quan hành chính cấp trên đối với cơ quan quyền lực nhà nước cấp dưới. Trong giải pháp này cần tăng cường năng lực, vai trò kiểm tra, giám sát bằng việc theo dõi, rà soát, xem xét các nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh của cơ quan tham mưu thuộc Chính phủ.

Thứ ba,
hiện tại, cơ chế kiểm soát hoạt động tư pháp nước ta chỉ bao gồm sự giám sát của Quốc hội (tự mình và thông qua các cơ cấu của Quốc hội và đại biểu Quốc hội), của Chủ tịch nước, của Hội đồng nhân dân các cấp, của Viện kiểm soát nhân dân các cấp. Trong đó, Quốc hội, Chủ tịch nước thực hiện giám sát đối với hoạt động xét xử của Toà án nhân dân tối cao và hoạt động truy tố, buộc tội của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Như vậy, việc kiểm soát của cơ quan hành pháp đối với hoạt động tư pháp hiện tại chưa có.

Trong trường hợp này, đề xuất xây dựng cơ chế kiểm soát của các cơ quan hành pháp đối với hoạt đông tư pháp thông qua hoạt động giám sát của các cơ quan hành pháp đối với hoạt động tư pháp. Cơ chế này là để đánh giá sự vận hành của hệ thống tư pháp, phát hiện những sai sót bất cập, hạn chế để có biện pháp khắc phục, chấn chỉnh về mặt tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp, góp phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, làm cho việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội được tốt hơn. Cũng thông qua việc giám sát để có căn cứ đánh giá tính hiệu quả của pháp luật, nhằm điều chỉnh các chính sách, sửa đổi pháp luật và quyết định những vấn đề quan trọng về lĩnh vực tư pháp.

Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi đề xuất hoạt động giám sát của các cơ quan hành pháp đối với các cơ quan tư pháp tập trung vào việc giám sát việc thực hiện pháp luật bao gồm các nội dung sau:

Thứ nhất, trong việc giải quyết các vụ hình sự và dân sự như các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động, hành chính,...; Thứ hai, về việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan tư pháp các cấp; Thứ ba, về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan tư pháp; Thứ tư, về nhiệm vụ của những người chịu trách nhiệm cao nhất trước Quốc hội về hoạt động tư pháp; Thứ năm, về bồi thường thiệt hại đối với các trường hợp bị oan sai do người có thẩm quyền của các cơ quan tư pháp gây ra; Thứ sáu, về quản lý tổ chức các cơ quan tư pháp; Thứ bảy, về việc sử dụng ngân sách nhà nước cấp cho các cơ quan tư pháp; Thứ tám, về việc các vấn đề quan trọng khác khi xét thấy cần thiết (như vấn đề thực hiện pháp luật về giải quyết các vụ phá sản doanh nghiệp, đình công, thực hiện pháp luật về công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, việc thực hiện pháp luật về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao...).

- Sự kiểm soát của cơ quan tư pháp đối với các cơ quan khác của nhà nước thể hiện qua sự hoàn thiện cơ chế kiểm soát của cơ quan tư pháp đối với cơ quan khác của nhà nước thông qua việc:

Tăng cường kiểm soát của cơ quan tư pháp đối với cơ quan lập pháp: Tăng cường việc kiểm soát tính hợp hiến của các luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành; tính hợp hiến, hợp pháp của các pháp lệnh, nghị quyết do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành chưa được cơ quan tư pháp kiểm soát, việc kiểm soát hiện nay chỉ mang tính nội bộ hệ thống.

Tăng cường kiểm soát của cơ quan tư pháp đối với cơ quan hành pháp: Tăng cường việc kiểm soát tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật do hệ thống hành chính nhà nước ở trung ương và chính quyền địa phương ban hành chưa được Tòa án kiểm soát, khắc phục việc kiểm soát trong cơ chế hiện tại cũng chỉ do cơ quan quyền lực nhà nước và cơ quan hành chính thực hiện.

Hoàn thiện cơ chế kiểm soát hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân đối với hoạt động hành chính nhà nước. Tuy đã có cơ chế kiểm soát từ phía các cơ quan quyền lực nhà nước, các cơ quan hành chính trong cùng hệ thống, nhưng cơ chế này vẫn tỏ ra kém hiệu quả, đặc biệt là những hoạt động, quyết định mang tính tổ chức, điều hành của hệ thống hành chính nhà nước, những quyết định chính sách, quyết định quy phạm của hệ thống hành chính về cơ bản vẫn chưa được kiểm soát theo đúng nghĩa của nó. Do đó, cần tăng cường sự kiểm soát của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân đối với cơ quan hành pháp để mọi hoạt động nhà nước cả hoạt động lập pháp, hành pháp đều chịu sự kiểm soát của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân khi có tranh chấp phát sinh từ việc áp dụng luật, các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản dưới luật. Điều này có nghĩa là cần trao cho Tòa án chức năng phán xét về tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật.

Ngoài cơ chế kiểm soát nhà nước cần phát huy một cách đầy đủ và hiệu quả vai trò hoạt động kiểm soát của các thiết chế xã hội đối với hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp./.