Quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021 - 2030
TCCS - Một trong các đột phá chiến lược được Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra là: “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội”(1), trong đó có quản lý phát triển an sinh xã hội. Trong quá trình này, Nhà nước sử dụng các công cụ, cơ chế, chính sách, pháp luật,... để tác động, điều chỉnh, thúc đẩy, điều tiết, xử lý các vấn đề an sinh xã hội phát sinh từ thực tiễn, bảo đảm quyền an sinh xã hội của người dân nhằm mục tiêu phát triển bền vững đất nước, vì con người.
Nhận thức về quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
Trong thế giới đương đại, phát triển an sinh xã hội bền vững thực chất là giải quyết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội công bằng, vì con người.
Quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững là vấn đề chiến lược, có vị trí quan trọng trong tổng thể hệ thống quản lý phát triển xã hội bền vững của quốc gia nhằm xây dựng một xã hội ổn định, hài hòa, đồng thuận, bao trùm, không có sự loại trừ, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững đất nước. Quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững cũng là chỉ báo thể hiện bản chất, tính ưu việt của một chế độ. Bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển nhanh và bền vững thì phải gắn kết chặt chẽ giữa quản lý phát triển kinh tế, nhất là tăng trưởng kinh tế với quản lý phát triển xã hội, an sinh xã hội bền vững.
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy, quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững thông qua hệ thống chính sách an sinh xã hội quốc gia cần bao gồm các nguyên tắc và tiêu chí cơ bản. Các nguyên tắc đó là: bảo đảm quyền của người dân tiếp cận, thụ hưởng các chính sách an sinh xã hội; công bằng và bền vững; gắn trách nhiệm và quyền lợi; có sự chia sẻ trên cơ sở gắn bó, đoàn kết, liên kết, tương trợ, bù đắp giữa các cá nhân, các nhóm trong xã hội và nhà nước; tăng cường trách nhiệm các chủ thể quản lý, thúc đẩy các nỗ lực tự an sinh của bản thân người dân, gia đình, cộng đồng.
Các tiêu chí kết quả đầu ra bao gồm: đạt được sự nhận thức rõ và thống nhất trong xã hội về bảo đảm an sinh xã hội cho người dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững đất nước; thực hiện quyền được bảo đảm an sinh xã hội của mọi công dân vì mục tiêu phát triển con người; đạt được tiến bộ, công bằng, đồng thuận xã hội trong bảo đảm quyền an sinh xã hội của người dân trên cơ sở hài hòa lợi ích giữa các chủ thể, nhóm xã hội, hạn chế phân tầng xã hội không hợp thức, phân hóa giàu nghèo; giải quyết cơ bản các vấn đề an sinh xã hội bức xúc nhằm phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho con người; hòa nhập xã hội tốt hơn đối với nhóm yếu thế và dễ bị tổn thương để không một ai bị bỏ lại phía sau.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng đặc biệt chú trọng tăng cường quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người. Đại hội đề ra định hướng: “Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”(2); bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Đại hội XIII cũng xác định phải “xây dựng các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp, giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội”(3). Như vậy, quản lý phát triển xã hội bền vững bao gồm cả quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững trên cơ sở phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân với các chính sách phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân, bảo đảm trợ giúp xã hội cho các nhóm đối tượng yếu thế.
Ngày nay, phát triển bền vững là xu thế tất yếu của tiến trình phát triển xã hội loài người trong hội nhập, nên quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm an sinh xã hội phải gắn với thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc, phấn đấu sớm hoàn thành các mục tiêu (17 mục tiêu chung và 169 mục tiêu cụ thể) theo Chương trình nghị sự 2030.
Là quốc gia đang phát triển, có thu nhập trung bình thấp, để thực hiện hiệu quả quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững, việc xây dựng chính phủ kiến tạo và phát huy cao nhất vai trò của chính phủ kiến tạo là rất cấp thiết đối với Việt Nam. Xây dựng chính phủ kiến tạo trong quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững là bước chuyển mạnh từ chính phủ thực hiện chức năng quản lý là chính sang chính phủ vừa là chủ thể quản lý, vừa là chủ thể phục vụ nhân dân. Trong xây dựng chính phủ kiến tạo quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững, vấn đề cơ bản là phải xác định rõ vai trò của chính phủ và vai trò của thị trường, giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội trong bảo đảm quyền an sinh xã hội của người dân. Chính phủ quản lý, đóng vai trò chủ đạo, đồng thời sử dụng cơ chế thị trường phù hợp và phát huy tinh thần tự an sinh của người dân, mở rộng sự tham gia của cộng đồng, xã hội trong một thể chế “chính phủ nhỏ, xã hội lớn”. Đây chính là “phong cách mới quản trị xã hội” của chính phủ kiến tạo quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững một cách dân chủ, văn minh. Xây dựng chính phủ kiến tạo quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững sẽ đạt yêu cầu kép là chính phủ mạnh và thị trường mạnh, vừa phát huy vai trò, thế mạnh của chính phủ, vừa tăng cường vai trò, ưu thế của thị trường trong quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững.
Một số nội dung cơ bản quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021 - 2030
Nhận thức về quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững, phải đồng thời gắn với xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển an sinh xã hội, quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021 - 2030 theo hướng đổi mới, quán triệt và cụ thể hóa nội dung phát triển và quản lý an sinh xã hội được xác định tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng, bao gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, quản lý phát triển kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và nhu cầu việc làm bền vững của người lao động.
Quản lý phát triển kỹ năng nghề nghiệp của nguồn nhân lực thông qua phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa 3 cấp trình độ và giữa các phương thức đào tạo, dạy nghề; gắn giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp nhằm bảo đảm đào tạo, giáo dục nghề nghiệp theo nhu cầu của xã hội, của thị trường lao động/doanh nghiệp và nhu cầu việc làm của người lao động; chuyển mạnh quá trình đào tạo, giáo dục nghề nghiệp chủ yếu từ trang bị kiến thức (lý thuyết) sang phát triển năng lực (kỹ năng) toàn diện, nhất là năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, tiếp cận tiêu chuẩn kỹ năng nghề khu vực và thế giới...
Phát triển kỹ năng nghề nghiệp toàn diện để người lao động có khả năng dịch chuyển tự do và linh hoạt trên thị trường lao động; ưu tiên phát triển kỹ năng nghề nghiệp trình độ cao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động; phát triển có trọng tâm kỹ năng nghề nghiệp, từng bước đạt tiêu chuẩn kỹ năng nghề tiên tiến để người lao động có khả năng tự do dịch chuyển, cạnh tranh công bằng khi tham gia vào thị trường lao động khu vực và thế giới; coi trọng phát triển kỹ năng nghề nghiệp thích hợp với công nghệ sử dụng nhiều lao động cho lao động nông thôn, khu vực kinh tế phi chính thức, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông nghiệp, nông thôn, khu vực kinh tế phi chính thức.
Tổ chức triển khai khung trình độ kỹ năng nghề quốc gia nhằm tạo bước chuyển quan trọng trong việc chuẩn hóa chất lượng lao động; giải quyết những thách thức về công nhận trình độ kỹ năng nghề của người lao động giữa các quốc gia trong khu vực ASEAN, các đối tác trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới và các nước thành viên Hội nghị Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện khu vực (CPTPP). Xây dựng và thẩm định tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia theo hướng chuyên nghiệp và hiện đại; nâng cao năng lực đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia và khuyến khích các chủ thể ngoài nhà nước tham gia; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong quản lý và điều hành hệ thống đánh giá và cấp chứng chỉ kỹ năng nghề.
Thứ hai, quản lý phát triển việc làm bền vững, tăng thu nhập cho người lao động và giảm nghèo bền vững.
Quản lý phát triển việc làm bền vững, tăng thu nhập cho người lao động nhằm bảo đảm cơ hội việc làm bền vững, có hiệu quả và thu nhập công bằng giữa nữ giới và nam giới; bảo đảm an toàn lao động tại nơi làm việc và bảo trợ xã hội cho gia đình; bảo đảm các quyền của người lao động.
Tiếp tục giải phóng triệt để sức sản xuất và sức lao động nhằm phát huy cao nhất tiềm năng và nguồn vốn nhân lực cho tăng trưởng, phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm bền vững, tiến tới việc làm xanh. Quản lý phát triển thị trường lao động đồng bộ trên phạm vi cả nước để liên thông cung - cầu lao động; hình thành và phát triển nhanh thị trường lao động trình độ cao; phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng của thị trường lao động (dịch vụ việc làm, cơ sở dữ liệu thông tin, dự báo thị trường lao động...). Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ. Thực hiện công bằng trong quan hệ phân phối tiền lương và thu nhập, gắn với năng suất lao động, hiệu quả công việc.
Đa dạng hóa sinh kế, tạo đủ việc làm tiến tới việc làm bền vững, có thu nhập ngày càng cao cho người lao động, đặc biệt là những người yếu thế, dễ bị tổn thương; bảo đảm cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo, hộ nghèo, tập trung vào lõi nghèo của cả nước là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi...
Trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư liên quan đến áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, nhất là rô-bốt dần thay thế con người ở nhiều vị trí việc làm và nhiều nghề cũ mất đi, nghề mới ra đời, nên yêu cầu về an toàn, vệ sinh lao động cũng thay đổi. Do đó, cần xây dựng văn hóa an toàn lao động, trong doanh nghiệp. Mở rộng xã hội hóa về an toàn, vệ sinh lao động theo hướng nâng cao hơn nữa trách nhiệm của Nhà nước/chính phủ kiến tạo, của người sử dụng lao động và người lao động, đồng thời mở rộng sự tham gia của các đối tác xã hội khác với nhiều phương thức, hình thức và mô hình linh hoạt để chia sẻ cộng đồng trách nhiệm xã hội đối với bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động trong doanh nghiệp.
Thứ ba, quản lý phát triển bảo hiểm xã hội theo Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 23-5-2018, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội”.
Quản lý phát triển bảo hiểm xã hội theo mô hình bảo hiểm xã hội đa tầng, đa dạng, linh hoạt, hiện đại, có tính chia sẻ và hội nhập quốc tế để bảo hiểm xã hội trở thành trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, bao gồm: bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm hưu trí bổ sung - chế độ hưu trí tự nguyện theo nguyên tắc thị trường, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; nâng cao ý thức, trách nhiệm của người lao động đối với việc tự bảo đảm an sinh cho mình.
Đối với bảo hiểm xã hội bắt buộc, thực hiện điều chỉnh các thông số đóng - hưởng; sửa đổi quy định về điều kiện thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tối thiểu để hưởng chế độ hưu trí theo hướng linh hoạt; sửa đổi các quy định về mức đóng, căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để đạt mục tiêu mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội; điều chỉnh tỷ lệ tích lũy để đạt tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa phù hợp với thông lệ quốc tế; thực hiện điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ.
Thứ tư, quản lý phát triển trợ giúp xã hội nhằm ổn định đời sống và hòa nhập xã hội cho các đối tượng bảo trợ xã hội.
Quản lý phát triển trợ giúp xã hội giai đoạn 2021 - 2030 thực hiện theo Quyết định số 488/QĐ-TTg, ngày 14-4-2017, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Đề án “Đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội 2017 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030”. Theo đó, cần tập trung xây dựng mô hình hệ thống trợ giúp xã hội đa tầng, tiên tiến, hiệu quả, theo hướng đa dạng, toàn diện cả vật chất và tinh thần, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân; bảo đảm người dân được hỗ trợ kịp thời từ Nhà nước, các tổ chức và cộng đồng khi gặp rủi ro; phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội theo quy hoạch đáp ứng nhu cầu của đối tượng cần chăm sóc xã hội; xây dựng mô hình cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội toàn diện, hướng đến năm 2030 cứ 5.000 người dân có một nhân viên công tác xã hội, trợ giúp xã hội chuyên nghiệp. Đặc biệt, cần xây dựng mức chuẩn trợ cấp xã hội và các hệ số dựa trên chuẩn nhu cầu tối thiểu của con người, tuổi thọ người dân và bảo đảm hội nhập quốc tế; từng bước tích hợp các chính sách trợ giúp xã hội.
Bảo đảm trợ giúp khẩn cấp dựa trên mức độ thiệt hại, tổn thương, hoàn cảnh cụ thể và khả năng khắc phục rủi ro của cá nhân, hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi thiên tai, hỏa hoạn, mất mùa, dịch bệnh, tác động của biến đổi khí hậu, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, nạn nhân của bạo lực gia đình, phụ nữ và trẻ em bị mua bán...
Ưu tiên chăm sóc và phát huy vai trò của người cao tuổi. Bảo đảm thực thi hiệu quả quyền của người khuyết tật trên các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, giáo dục, đào tạo nghề, việc làm, văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch, tiếp cận công trình công cộng, giao thông, công nghệ thông tin và truyền thông, trợ giúp pháp lý. Bảo đảm quyền cơ bản cho trẻ em trong phát triển thể chất và tinh thần, tạo tiền đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; chăm sóc và bảo vệ trẻ em, nhất là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, như trẻ em mồ côi, trẻ em khuyết tật, bị bạo lực...
Thứ năm, quản lý phát triển công tác xã hội chuyên nghiệp, hoạt động cung cấp dịch vụ xã hội nói chung, dịch vụ an sinh xã hội, chăm sóc xã hội cho đối tượng bảo trợ xã hội nói riêng.
Phát triển các cơ sở công tác xã hội công lập và ngoài công lập theo quy định pháp luật và quy hoạch trên cơ sở xây dựng Dự án Luật Công tác xã hội. Trong đó, chú ý đến quy hoạch phát triển; mô hình cơ sở công tác xã hội phù hợp với cung cấp dịch vụ công về an sinh xã hội; phát triển nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân và phân bố hợp lý trên các vùng; thực hiện cơ chế hoạt động tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong cung cấp dịch vụ công tác xã hội.
Một số giải pháp cần triển khai thời gian tới
Các nội dung quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững nêu trên đặt ra yêu cầu trong hoạt động quản lý phát triển xã hội giai đoạn 2021 - 2030. Việt Nam thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo hướng kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế bao trùm và bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường là một cơ hội lớn để phát triển an sinh xã hội bền vững. Song, quá trình đó sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro xã hội do cải cách thể chế, do mặt trái, khiếm khuyết và trục trặc của cơ chế thị trường; sự phát triển không đồng đều giữa các vùng vẫn tồn tại, nhất là giữa vùng đồng bằng với vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa; khủng hoảng kinh tế và tài chính khu vực, toàn cầu có nguy cơ xảy ra với cường độ mạnh hơn, chu kỳ ngắn hơn sẽ tác động không nhỏ đến Việt Nam. Hơn nữa, Việt Nam còn phải đối mặt với cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường khu vực và thế giới trong quá trình hội nhập quốc tế, vấn đề già hóa dân số nhanh và biến đổi khí hậu toàn cầu mà Việt Nam là một trong 5 nước bị ảnh hưởng mạnh nhất... cũng là những thách thức lớn mà Việt Nam phải vượt qua trong quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững. Do đó, cần phải xây dựng, thực hiện đồng bộ hệ thống các giải pháp sau:
Một là, tập trung đẩy mạnh xây dựng chính phủ kiến tạo quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững phù hợp với giai đoạn phát triển mới 2021 - 2030.
Chính phủ kiến tạo được xây dựng và phát triển phải có đủ năng lực quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững trên cơ sở xác định đúng, khoa học vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức. Đây là giải pháp vĩ mô quan trọng và muốn thành công phải thực hiện đồng bộ, quyết liệt các biện pháp, như có quyết tâm chính trị cao, sự vào cuộc, hành động quyết liệt của cả hệ thống chính trị; nghiên cứu, đổi mới tư duy lý luận về mô hình chính phủ kiến tạo, có lộ trình chuyển từ mô hình chính phủ quản lý là chính sang mô hình chính phủ quản lý và phục vụ trên cơ sở kế thừa, phát triển những yếu tố tích cực của Chính phủ trong các giai đoạn trước, đặc biệt chú ý đến tính ưu việt của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nền văn hóa Việt Nam. Trong đó, ưu tiên xây dựng một nền hành chính công hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, nói không với tham nhũng quyền lực; phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao trong bộ máy hành chính; hiện đại hóa hoạt động của hệ thống chính phủ, bảo đảm các bộ, ngành chức năng ở Trung ương và địa phương, cơ sở liên quan đến quản lý an sinh xã hội bền vững đáp ứng yêu cầu của xây dựng chính phủ kiến tạo, chính phủ điện tử, chính phủ số.
Tăng cường vai trò chủ thể quản lý của chính phủ kiến tạo trong quản lý phát triển an sinh xã hội trên cơ sở rà soát lại các nghị định của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ, ngành liên quan để: 1- Tạo khung pháp lý (chiến lược, chính sách, pháp luật, chương trình...) về bảo đảm quyền an sinh xã hội của mọi công dân; 2- Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, pháp luật, chương trình,... bảo đảm an sinh xã hội; 3- Điều tiết, can thiệp, xử lý những thất bại của thị trường đối với bảo đảm an sinh xã hội trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, già hóa dân số, biến đổi khí hậu, cải cách thể chế...; 4- Thực hiện những phản ứng chính sách, nhất là tạo hàng rào kỹ thuật trong hội nhập quốc tế, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, phân công lao động, thị trường lao động khu vực và thế giới, các FTA thế hệ mới,... để bảo vệ kịp thời người dân, người lao động Việt Nam khi gặp rủi ro; 5- Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chiến lược, chính sách, pháp luật, chương trình an sinh xã hội. Đồng thời, với vai trò chủ thể chính bảo đảm an sinh xã hội, chính phủ kiến tạo cần bổ sung các chức năng, nhiệm vụ sau đây: 1- Thực hiện vai trò chủ đạo, nòng cốt, định hướng, dẫn dắt trong bảo đảm quyền an sinh xã hội của mọi công dân; 2- Phát huy vai trò bảo trợ, hỗ trợ, giá đỡ của Nhà nước trong việc thực hiện các chính sách, chương trình bảo đảm an sinh xã hội cho đối tượng hưởng lợi, nhất là nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương; 3- Xử lý mối quan hệ công - tư (Nhà nước - thị trường - xã hội) trên cơ sở phát huy vai trò nòng cốt, chủ đạo của Nhà nước; mở rộng sự tham gia của các đối tác xã hội, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân theo chủ trương xã hội hóa các chính sách, chương trình bảo đảm an sinh xã hội và sự nỗ lực tự an sinh của người dân; 4- Tạo ra một hệ thống thiết chế bảo đảm hệ thống an sinh xã hội thân thiện, dễ tiếp cận đối với người dân, do đó, cần cải cách thủ tục hành chính, xây dựng chính phủ điện tử, số hóa và thông qua hoạt động dịch vụ chăm sóc xã hội, công tác xã hội chuyên nghiệp.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan đến các lĩnh vực xã hội, an sinh xã hội theo hướng kết hợp chặt chẽ hơn các chính sách kinh tế với chính sách xã hội và an sinh xã hội để tăng trưởng kinh tế thực sự gắn kết với phát triển xã hội công bằng, bảo đảm an sinh xã hội. Điều chỉnh, bổ sung, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ, phù hợp, hiệu lực và khả thi, nhất là bổ sung, sửa đổi Luật Việc làm, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật; nghiên cứu hình thành dự án xây dựng mới Luật Trợ giúp xã hội, Luật Công tác xã hội, Luật Quan hệ lao động,... phù hợp với giai đoạn phát triển mới. Nội luật hóa các điều ước, cam kết quốc tế liên quan đến bảo đảm an sinh xã hội trong hội nhập quốc tế, thích ứng với vấn đề già hóa dân số và biến đổi khí hậu toàn cầu giai đoạn 2021 - 2030.
Ba là, xây dựng và thực hiện hiệu quả các chương trình mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội giai đoạn 2021 - 2030.
Chính phủ cần tập trung chỉ đạo thực hiện Quyết định số 662/QĐ-TTg, ngày 10-5-2017, của Thủ tướng Chính phủ, “Về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững”, phấn đấu về đích 17 mục tiêu chung và 115 mục tiêu cụ thể vào năm 2030.
Xây dựng và thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021 - 2025 và giai đoạn 2026 - 2030. Đây là chương trình tổng thể cần được xây dựng trên cơ sở tích hợp các chương trình hiện nay về giảm nghèo bền vững, việc làm, phát triển kỹ năng nghề nghiệp, bảo trợ xã hội...
Nhà nước bảo đảm nguồn lực thực hiện các chính sách, chương trình nêu trên và huy động sự đóng góp, tham gia của toàn xã hội. Tăng cường tính chủ động của địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ, cộng đồng dân cư trong thực hiện, tư vấn, phản biện, kiến nghị và giám sát thực hiện các chương trình này.
Bốn là, phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ xã hội, an sinh xã hội.
Hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội, an sinh xã hội, như dịch vụ việc làm, dịch vụ chăm sóc xã hội các đối tượng bảo trợ xã hội, dịch vụ xã hội cơ bản (y tế, giáo dục, văn hóa, thông tin, pháp lý...), dịch vụ công tác xã hội cần phát triển theo hướng chuyên nghiệp và tự chủ.
Coi trọng chăm sóc đối tượng tại cộng đồng và mở rộng khu vực ngoài nhà nước (các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp...) tham gia trên cơ sở vận dụng cơ chế thị trường theo quy định của pháp luật, sự ủy thác, đặt hàng của Nhà nước gắn với bảo đảm chất lượng dịch vụ và nâng cao tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ phát triển các cơ sở này đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân, nhất là chính sách hỗ trợ về đất đai xây dựng mặt bằng, mua sắm các trang thiết bị của các cơ sở công lập và ngoài công lập; chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, phát triển kỹ năng nghề nghiệp nhân lực công tác xã hội; chính sách tiền lương, tôn vinh nghề công tác xã hội; chính sách về khung giá dịch vụ công tác xã hội sát với thị trường để các cơ sở cung cấp dịch vụ an sinh xã hội có thể tự chủ và phát triển; chính sách về ủy thác của Nhà nước thông qua ký kết hợp đồng cung cấp dịch vụ công về an sinh xã hội, thông qua hoạt động công tác xã hội chuyên nghiệp...
Năm là, phát triển và nâng cao vai trò của các đối tác xã hội trong quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững.
Trong xã hội hiện đại, để thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ và công bằng, cần coi trọng vai trò của các đối tác xã hội (các chủ thể ngoài nhà nước) trong quản lý phát triển an sinh xã hội nhằm đạt mục tiêu và hiệu quả cao hơn.
Để phát huy vai trò của các đối tác xã hội đồng thời với xây dựng chính phủ kiến tạo, cần bảo đảm cho các đối tác xã hội: 1- Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp cùng Chính phủ xây dựng thể chế (cơ chế, chính sách, pháp luật), chiến lược, kế hoạch, chương trình bảo đảm an sinh xã hội; 2- Tham gia phản biện các cơ chế, chính sách, pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chương trình này do Chính phủ xây dựng; 3- Phát huy vai trò đại diện cho các nhóm xã hội, xây dựng và phát triển cộng đồng tham gia bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, nhất là cho nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương; 4- Tham gia cung cấp dịch vụ công về an sinh xã hội, dịch vụ xã hội cơ bản như là “cánh tay nối dài của Chính phủ” để đạt đúng mục tiêu, đối tượng và hiệu quả; nhân rộng các mô hình hiệu quả thực hiện các chính sách, chương trình bảo đảm an sinh xã hội; 5- Xây dựng và phát triển cộng đồng, các tổ chức xã hội đa dạng, phù hợp với nhu cầu bảo đảm an sinh xã hội của người dân, trong một “chính phủ nhỏ, xã hội lớn”, hướng vào phát triển cộng đồng, gắn kết, đồng thuận và tiến bộ.
Sáu là, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả, chất lượng hội nhập và hợp tác quốc tế về quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững.
Chủ động, tích cực và có tránh nhiệm tham gia đóng góp, xây dựng, thực hiện các điều ước và tiêu chuẩn quốc tế của Liên hợp quốc, Tổ chức Lao động quốc tế, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc, Quỹ Dân số Liên hợp quốc..., các hiệp định hợp tác song phương và đa phương, nhất là FTA thế hệ mới,... liên quan đến bảo đảm an sinh xã hội; tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế về kinh nghiệm, kỹ thuật, đào tạo cán bộ và tài chính để tăng thêm nguồn lực cùng Nhà nước, xã hội nhằm quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững./.
------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I,
tr. 220
(2), (3) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 116, 148
Hà Nội triển khai có hiệu quả chính sách hỗ trợ an sinh đến với các đối tượng gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19  (22/07/2021)
Quán triệt và triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trên lĩnh vực văn học - nghệ thuật, khoa học - kỹ thuật  (22/07/2021)
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính: Phòng, chống dịch hiệu quả, xây dựng Hà Nội xứng tầm với Thủ đô ngàn năm văn hiến, “Thành phố vì hòa bình”  (20/07/2021)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay