TCCS - Việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XIV của Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận (nhiệm kỳ 2020 - 2025) diễn ra trong bối cảnh có nhiều thời cơ và thách thức đan xen. Tỉnh ủy Ninh Thuận đã lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy và chính quyền các cấp trong tỉnh học tập, quán triệt và thực hiện nghiêm túc, tuyên truyền tới các tầng lớp nhân dân một cách khẩn trương và hiệu quả, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức, trong quyết tâm chính trị và trong hành động, qua đó mang lại những thành tựu nổi bật. 

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng thăm Làng nghề gốm Bàu Trúc ở thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận_Ảnh: TTXVN

Một số kết quả ấn tượng trong thực hiện các chỉ tiêu của nhiệm kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2020 - 2025

Với vị trí là cửa ngõ nối vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ với các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, tỉnh Ninh Thuận có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Trong những năm qua, bên cạnh việc quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của Trung ương là tinh thần chủ động, quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự đoàn kết, đồng lòng của nhân dân trong tỉnh. Đảng bộ, chính quyền tỉnh Ninh Thuận lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị; đồng thời, triển khai chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, qua đó đã đạt được nhiều kết quả quan trọng:

Kinh tế được duy trì ổn định và có chuyển biến tích cực

Là một tỉnh có xuất phát điểm nền kinh tế - xã hội thấp, sau 31 năm thành lập lại, kinh tế - xã hội của tỉnh có sự thay đổi mạnh mẽ, phát triển vượt bậc, từ một tỉnh thuộc nhóm các tỉnh nghèo nhất, vươn lên thành một tỉnh có mức phát triển trung bình, tăng trưởng giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước, nhất là giai đoạn 2011 - 2020, phát triển kinh tế - xã hội theo hướng nhanh, bền vững với phương châm biến thách thức thành cơ hội, lấy chủ trương phát triển năng lượng tái tạo là đột phá, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt mức cao. Qua đó, khẳng định và nâng tầm vị thế của tỉnh.

Tốc độ tăng GRDP bình quân giai đoạn 2021 - 2023 đạt 9,28%/năm, cao hơn mức tăng trưởng bình quân cả nước và khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng nâng cao tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ, trong đó nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 27,8%, công nghiệp - xây dựng chiếm 39,6%, dịch vụ chiếm 32,6%.

Ngành nông nghiệp của tỉnh phát triển ổn định, khá toàn diện, là bệ đỡ của nền kinh tế khi gặp khó khăn, nhất là trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19 bùng phát. Giá trị sản xuất toàn ngành đạt 13.576,5 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 5,12%/năm, giá trị tăng thêm đạt 5,3%/năm. Chủ trương cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với ứng dụng khoa học - công nghệ tích cực được triển khai, có bước phát triển mạnh mẽ. Các mô hình sản xuất tiên tiến được nhân rộng, năng suất, chất lượng một số cây trồng chính được nâng lên.

Phát triển kinh tế biển được tập trung chỉ đạo; tiềm năng, lợi thế các nhóm ngành kinh tế biển được nhận diện sâu sắc và khai thác, phát huy hiệu quả. Tốc độ tăng trưởng bình quân kinh tế biển đạt 12,45%/năm, đóng góp 41,56% vào GRDP của tỉnh. Chủ trương cơ cấu lại nghề khai thác hải sản theo hướng phát triển đánh bắt xa bờ gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo được tập trung chỉ đạo; năng lực khai thác được nâng lên, hiện nay toàn tỉnh có 834 tàu khai thác vùng “biển xa”(1), sản lượng hằng năm đạt trên 120 nghìn tấn, vượt mục tiêu đề ra. Chủ trương xây dựng tỉnh Ninh Thuận trở thành trung tâm sản xuất tôm giống chất lượng cao đạt mục tiêu đề ra; năng lực sản xuất tăng nhanh, cung ứng khoảng 30% nhu cầu của cả nước; sản lượng trung bình hằng năm đạt 40 tỷ con.

Ngành công nghiệp - xây dựng có mức tăng trưởng khá, tiềm năng, thế mạnh của tỉnh được khai thác hiệu quả. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân đạt trên 15%/năm; quy mô tăng nhanh, giá trị sản xuất năm 2023 ước đạt 13.880,3 tỷ đồng, gấp 1,5 lần so với năm 2020, chiếm tỷ trọng 28,18% GRDP. Chủ trương xây dựng tỉnh Ninh Thuận thành trung tâm năng lượng, năng lượng tái tạo của cả nước đạt kết quả tích cực; tiếp tục khẳng định là động lực cho tăng trưởng kinh tế tỉnh. Dự kiến đến cuối năm 2023, có 58 dự án năng lượng hoàn thành đưa vào vận hành với tổng công suất 3.870,2 MW(2), với sản lượng điện ước đạt trên 7,6 tỷ KWh, chiếm trên 16,5% tổng công suất các nguồn năng lượng tái tạo của cả nước. Hệ thống hạ tầng truyền tải được đầu tư đồng bộ(3) nhằm giảm tải công suất cho các dự án năng lượng tái tạo.

Giá trị sản xuất ngành xây dựng năm 2023 ước đạt 9.426,2 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân đạt 6,91%/năm, chiếm tỷ trọng 10,45% GRDP. Đầu tư nâng cấp, nâng cao chất lượng đô thị, đẩy mạnh thu hút đầu tư các dự án khu dân cư, khu đô thị mới, góp phần thay đổi diện mạo đô thị; tỷ lệ đô thị hóa đạt 35,5%.

Ngành thương mại - du lịch và dịch vụ phát triển theo hướng văn minh, hiện đại, đáp ứng nhu cầu của người dân. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân đạt 10,73%/năm; tốc độ tăng giá trị tăng thêm đạt 9,68%/năm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng trưởng khá, năm 2023 ước đạt 37.207 tỷ đồng, tăng 55,7% so năm 2020; tăng trưởng bình quân đạt 15,91%/năm.

Ngành du lịch phát triển nhanh và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Các dự án trọng điểm, hạ tầng du lịch được quan tâm đầu tư; chất lượng dịch vụ từng bước được nâng lên. Lượng khách du lịch đến tỉnh tăng nhanh(4), gấp 2,3 lần so với năm 2020; doanh thu đạt 1.900 tỷ đồng, gấp 2,2 lần so với năm 2020, chiếm tỷ trọng 10% GRDP tỉnh.

Được khẳng định là trụ cột quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, ngay từ đầu nhiệm kỳ, tỉnh đã tập trung huy động mọi nguồn lực cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng đồng bộ, từng bước hiện đại. Cơ cấu vốn đầu tư chuyển dịch theo hướng giảm nguồn vốn nhà nước, tăng tỷ trọng vốn các thành phần kinh tế, dân cư; tập trung đầu tư một số hạ tầng trọng yếu, đột phá, như đường nối cao tốc cảng Cà Ná; hạ tầng cấp thoát nước thành phố Phan Rang - Tháp Chàm; hạ tầng thủy lợi... Công tác xúc tiến, thu hút đầu tư được đẩy mạnh, từng bước đổi mới và phát huy hiệu quả.

Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường có nhiều chuyển biến tích cực, dần đi vào nền nếp. Chủ trương xây dựng phát triển tỉnh Ninh Thuận “xanh - sạch - đẹp” chuyển biến tích cực. Chương trình thích ứng với biến đổi khí hậu được quan tâm triển khai, phát huy hiệu quả. Tập trung chỉ đạo kiểm tra, từng bước tháo gỡ vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng, nhất là các dự án trọng điểm.

Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ

Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, công tác cải cách hành chính và nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh luôn được chú trọng. Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo quyết liệt công tác chuyển đổi số và đạt được một số kết quả bước đầu. Đến nay, tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến đạt 80,26%(5). Chỉ số chuyển đổi số (DTI) có sự chuyển biến vượt bậc(6); nền tảng dữ liệu dùng chung cơ bản hoàn thành; chính quyền số chuyển biến tích cực. Đề án kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được triển khai thực hiện quyết liệt, đạt kết quả khả quan.

Chương trình xây dựng nông thôn mới được tập trung triển khai, đạt nhiều kết quả quan trọng; huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực thực hiện(7). Trong nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV (2020 - 2025), toàn tỉnh có thêm 36 thôn đạt chuẩn nông thôn mới (lũy kế là 38 thôn đạt chuẩn thôn nông thôn mới) và 2 thôn đạt chuẩn thôn nông thôn mới kiểu mẫu. Ở cấp xã, có thêm 5 xã đạt chuẩn xã nông thôn mới (lũy kế là 31 xã đạt chuẩn xã nông thôn mới) và 8 xã đạt chuẩn xã nông thôn mới nâng cao (lũy kế là 10 xã đạt chuẩn xã nông thôn mới nâng cao); đồng thời, tiếp tục duy trì, giữ vững chất lượng 2 huyện đạt chuẩn huyện nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020. Toàn tỉnh hiện có 2/6 huyện và 33/47 xã (chiếm 70,2%) đạt chuẩn nông thôn mới. Diện mạo nông thôn có nhiều khởi sắc; đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng lên rõ rệt.

Đặc biệt, chất lượng giáo dục được cải thiện và nâng cao. Đa dạng hóa các hình thức, ngành, nghề đào tạo gắn với giải quyết việc làm: tổ chức dạy nghề cho 27.104 lao động, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 65,4%, tăng 5,2% so với năm 2020, trong đó lao động có bằng cấp đạt 29%, tăng 4,9% so với năm 2020; hằng năm có khoảng 60 - 70% lao động có việc làm sau đào tạo nghề. Chất lượng nguồn nhân lực từng bước được nâng cao.

Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có nhiều chuyển biến, nhất là tập trung các lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ được quan tâm đào tạo, có nhiều đóng góp quan trọng trong quá trình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, đổi mới phương pháp sản xuất cho nông dân(8). Công tác hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh đạt được những kết quả bước đầu. Trong 3 năm (2021 - 2023), tỉnh đã triển khai mới 25 đề tài, trong đó có 2 đề tài nghiên cứu khoa học cấp quốc gia.

Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm, nhất là trong công tác phòng, chống dịch COVID-19. Chất lượng khám, chữa bệnh được nâng cao, chú trọng đến sự an toàn và hài lòng của người bệnh. Hiện nay, toàn tỉnh có 96,9% số xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế (mục tiêu đến 2025 đạt 100%). Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế toàn tỉnh ước đạt 94,55% số dân số, tăng 0,71% so với năm 2020. Các chương trình mục tiêu quốc gia tiếp tục được triển khai thực hiện.

Các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc được bảo tồn và phát huy. Công tác bảo tồn các giá trị văn hóa đạt kết quả tích cực: Núi Chúa được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới; nghệ thuật làm gốm của người Chăm được UNESCO ghi danh vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp; vịnh Vĩnh Hy được xếp hạng Di tích danh lam thắng cảnh cấp quốc gia.

Các chính sách xã hội được triển khai đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng; công tác chăm lo đối tượng chính sách và hộ nghèo được chú trọng quan tâm. Phong trào chăm lo người có công tiếp tục được triển khai sâu rộng, đến nay, trên 99,5% hộ người có công có mức sống trung bình. Triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều năm 2021 giảm từ 7,82% xuống còn 4,43%. Đời sống của nhân dân không ngừng được nâng cao, GRDP bình quân đầu người tăng trưởng khá, ước đạt 88,5 triệu đồng/người, gấp 1,5 lần so với năm 2020.

Hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng tiếp tục được đổi mới, phát huy hiệu quả. Việc xây dựng các nghị quyết, chương trình cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ các cấp được triển khai thực hiện quyết liệt, kịp thời, sát hợp với thực tiễn. Công tác nắm bắt, định hướng tư tưởng và dư luận xã hội được chú trọng quan tâm, gắn với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về ý thức tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc được nâng lên. Vai trò, trách nhiệm nêu gương của cấp ủy, người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo chủ chốt và đảng viên được đề cao, thể hiện rõ nét trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Tập trung chỉ đạo thực hiện hiệu quả việc sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy cơ quan, đơn vị, đồng thời sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; qua đó, chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị được nâng lên. Chỉ đạo rà soát, triển khai thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, xã, giai đoạn 2023 - 2030, thực hiện tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên không ngừng được nâng cao, toàn diện hơn; từng bước ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Công tác cán bộ bảo đảm chặt chẽ, đúng quy định; đội ngũ cán bộ của tỉnh cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Công tác kiểm tra, giám sát tiếp tục được đổi mới, chủ động, toàn diện, chất lượng từng bước được nâng lên. Nội dung kiểm tra, giám sát bám sát sự chỉ đạo của Trung ương. Công tác giám sát từng bước được mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, nhất là tập trung vào các lĩnh vực nhạy cảm, dễ sai phạm, nơi có nhiều bức xúc, dư luận quan tâm. Công tác thi hành kỷ luật trong Đảng được thực hiện kịp thời, nghiêm minh, bảo đảm đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền, dân chủ, khách quan. Qua đó giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng, bảo đảm sự thống nhất giữa ý chí và hành động, được dư luận, cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình ủng hộ, góp phần giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng.

Đặc biệt, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả: đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với các lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực; nâng cao hiệu quả giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội... Tăng cường kiểm tra, rà soát các cuộc thanh tra kinh tế - xã hội, thực hiện kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước, kết luận của Thanh tra Chính phủ, bộ, ngành, địa phương. Kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tập thể, cá nhân; giám sát việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng, tiêu cực. Xử lý vi phạm nghiêm minh, đúng pháp luật. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Thường trực, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tỉnh đã cho ý kiến, xử lý 16 vụ án/39 bị can, thu hồi số tiền sai phạm 3.349.480.995 đồng.

Công tác dân vận, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể có nhiều đổi mới, tạo sự lan tỏa sâu rộng. Cấp ủy, chính quyền các cấp lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, cải cách thủ tục hành chính; tăng cường công tác tiếp dân và đối thoại trực tiếp với nhân dân; chỉ đạo cơ quan, đơn vị, địa phương tập trung giải quyết bức xúc, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Công tác tôn giáo, dân tộc tiếp tục được quan tâm. Các phong trào thi đua, tập hợp quần chúng được đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động; hướng tới cơ sở, quan tâm đến nguyện vọng, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân; triển khai hiệu quả các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường.

Bên cạnh đó, quốc phòng - an ninh được giữ vững; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh được bảo đảm. Công tác cải cách tư pháp được quan tâm, tăng cường tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chất lượng hoạt động tố tụng được nâng lên; công tác phối hợp giải quyết nhiệm vụ tư pháp ngày càng chặt chẽ, mang lại hiệu quả.

Hoạt động đối ngoại, hội nhập, quan hệ quốc tế tiếp tục được triển khai và mở rộng trên nhiều lĩnh vực, theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả. Hoạt động đối ngoại bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý của Nhà nước; công tác quản lý đoàn ra, đoàn vào bảo đảm chặt chẽ, an toàn, đúng quy định.

Có thể thấy, những thành tựu mà tỉnh đạt được trong nửa nhiệm kỳ vừa qua có ý nghĩa quan trọng, là kết quả của quá trình phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, thách thức với tinh thần đoàn kết, lao động sáng tạo của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh, thể hiện khát vọng vươn lên trên mỗi chặng đường phát triển, góp phần thúc đẩy tỉnh Ninh Thuận phát triển nhanh, bền vững.

Mô hình trồng giống nho ngón tay đen không hạt chất lượng cao tại xã Nhơn Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận_Ảnh: TTXVN

Một số “điểm nghẽn” cần tháo gỡ

Bên cạnh kết quả đạt được, việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2020 - 2025 về phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế, bất cập: Mặc dù kinh tế có mức tăng trưởng khá, song chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn nhiều hạn chế; cơ cấu lại nền kinh tế và cơ cấu từng ngành, lĩnh vực chuyển dịch còn chậm, chưa đi vào chiều sâu. Chất lượng giáo dục còn có sự chênh lệch lớn giữa các vùng, miền. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; chất lượng đào tạo nghề còn hạn chế.

Hoạt động y tế còn gặp nhiều khó khăn. Đời sống, thu nhập của người dân được nâng lên, nhưng còn nhiều khó khăn, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao, tỷ lệ hộ nghèo còn ở mức cao so với bình quân chung của cả nước(9).

Công tác quán triệt, tuyên truyền, triển khai, tổ chức đợt sinh hoạt chính trị về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị ở một số tổ chức đảng còn chậm so với kế hoạch đề ra. Phương thức chỉ đạo, điều hành, triển khai thực hiện nghị quyết của cấp ủy cấp trên còn hạn chế, chưa sâu sát, hiệu quả chưa cao.

Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên: Về nguyên nhân khách quan: Tình hình biến đổi khí hậu, dịch bệnh diễn biến phức tạp; tác động của tình hình thế giới và trong nước, nhất là về giá cả nguyên - nhiên vật liệu, chi phí sản xuất đầu vào, giá cả sinh hoạt tăng cao...; chủ trương tạm dừng triển khai xây dựng nhà máy điện hạt nhân chưa được cụ thể hóa lộ trình thực hiện, ảnh hưởng đến định hướng, chiến lược phát triển của tỉnh; hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách có thời điểm chưa thật sự đồng bộ, ổn định, nhất là các chính sách liên quan đến đầu tư, quy hoạch, năng lượng, đất đai, khoáng sản, lâm nghiệp, tiền tệ, thuế... Về nguyên nhân chủ quan: Công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện nhiệm vụ có nơi, có lúc chưa kịp thời. Công tác phối hợp giữa cơ quan, địa phương, đơn vị chưa chặt chẽ, đồng bộ. Công tác tham mưu, đề xuất của một số cơ quan, đơn vị, địa phương chưa mang tính chủ động; năng lực, tinh thần trách nhiệm và chất lượng tham mưu của một số cán bộ, công chức có mặt còn hạn chế. Tinh thần trách nhiệm người đứng đầu một số cơ quan, đơn vị chưa thực sự quyết liệt; việc giải quyết khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, nhà đầu tư có nơi, có lúc còn chậm, chưa mang lại hiệu quả cao.

Một số bài học kinh nghiệm

Một là, chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ; bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gắn với kịp thời ban hành các nghị quyết, chỉ thị và chương trình, đề án, dự án sát với thực tiễn, xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp mang tính đột phá để sớm tổ chức thực hiện, có sự phân công trách nhiệm cụ thể, rõ ràng đi đôi với kiểm tra, giám sát.

Hai là, trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành phải kiên định với mục tiêu, khát vọng đã đề ra; trong thực hiện phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt; đồng thời, theo dõi chặt chẽ, dự báo sát tình hình, năng động, sáng tạo, kịp thời chuyển hướng phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với xu thế và tiềm năng phát triển.

Ba là, quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính; tăng cường trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp.

Bốn là, đổi mới tư duy nhằm giải quyết hiệu quả các mối quan hệ về kinh tế - xã hội - môi trường; kết hợp hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư. Phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, kịp thời giữa Đảng, chính quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị, huy động sức mạnh của nhân dân để nỗ lực, kiên trì thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra.

Năm là, coi trọng hợp tác, liên kết, học tập kinh nghiệm các địa phương, đối tác để vận dụng sáng tạo; kịp thời kiến nghị, đề xuất với Trung ương tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để khai thác, phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Tranh thủ mọi cơ hội cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là sự quan tâm lãnh đạo và hỗ trợ cơ chế, chính sách của Trung ương.

Sáu là, bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng - an ninh và phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân; chủ động thông tin kịp thời, chính xác, khách quan về tình hình kinh tế - xã hội; củng cố niềm tin, khơi dậy khát vọng phát triển, tinh thần đoàn kết, tạo sức mạnh tổng hợp, đồng thuận cao trong xã hội.

Nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ nhiệm kỳ 2020 - 2025

Để hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ các cấp, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đề ra, cấp ủy, chính quyền các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân trong toàn tỉnh cần tăng tốc, bứt phá trong những năm còn lại của nhiệm kỳ, trong đó cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, tập trung rà soát các chỉ tiêu, nhiệm vụ còn khó khăn, chưa được triển khai thực hiện, từ đó xây dựng kế hoạch, xác định giải pháp cụ thể tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện nhằm phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra đối với từng ngành, lĩnh vực.

Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, ứng dụng khoa học và công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế ban đêm theo lộ trình phù hợp, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Tập trung phát triển các ngành, lĩnh vực động lực, trọng điểm, đột phá: kinh tế biển, sản xuất nông nghiệp, năng lượng tái tạo, công nghiệp chế biến, du lịch, kinh tế đô thị. Phát triển tỉnh Ninh Thuận trở thành trung tâm năng lượng, năng lượng tái tạo của cả nước; đẩy nhanh tiến độ các dự án năng lượng tái tạo, Cảng biển tổng hợp Cà Ná, Dự án Tổ hợp điện khí Cà Ná, Khu công nghiệp Cà Ná, Thủy điện tích năng Bác Ái... Thực hiện hiệu quả chủ trương phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Phấn đấu đến năm 2030, quy mô nền kinh tế tăng 3,65 lần so với năm 2020, trở thành tỉnh có nền kinh tế phát triển năng động và đa dạng, có mức thu nhập bình quân thuộc nhóm trung bình cao của cả nước.

Thứ ba, xây dựng và triển khai thực hiện hiệu quả Quy hoạch tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó đặc biệt quan tâm tới vị thế, vai trò của tỉnh Ninh Thuận là động lực, cực tăng trưởng trong liên kết vùng và các tỉnh lân cận. Tập trung huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương, nhất là cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ tỉnh. Đồng thời, phát huy ý chí tự lực, tự cường, triển khai thực hiện kế hoạch phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội với lộ trình thích hợp, chặt chẽ, hiệu quả, khả thi.

Thứ tư, thực hiện hiệu quả nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững. Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo gắn với chuyển đổi số; nâng chất lượng đào tạo nghề gắn với nhu cầu của doanh nghiệp, thị trường lao động để giải quyết việc làm. Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, đầu tư nghiên cứu, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và phát triển văn hóa, con người Ninh Thuận đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững, để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là động lực, đột phá phát triển kinh tế - xã hội.

Tiếp tục thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách xã hội, chính sách đối với người có công; thực hiện hiệu quả chương trình giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Quan tâm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân; nâng cao chất lượng y tế, nhất là y tế cơ sở.

Thứ năm, tăng cường quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Chủ động ngăn chặn, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Tăng cường công tác nội chính, thanh tra, kiểm tra, giám sát; duy trì hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Chủ động, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ tỉnh, nhất là tập trung lãnh đạo triển khai hiệu quả Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tăng cường công tác nắm tình hình tư tưởng, dư luận của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với những sự kiện chính trị quan trọng, những vấn đề nhạy cảm để kịp thời định hướng công tác tư tưởng; đấu tranh với các thông tin sai trái, xuyên tạc; làm tốt công tác tư tưởng nội bộ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, rà soát đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ.

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tuyên truyền, vận động, tạo sự đồng thuận cao của nhân dân trong thực hiện các chương trình, chính sách lớn của tỉnh; hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước; xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết, tham gia xây dựng Đảng và chính quyền, coi đây là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của tỉnh.

Với những kết quả đạt được, cùng sự quyết tâm chính trị, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển và tính tích cực lao động sáng tạo, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Ninh Thuận quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra; tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; bảo đảm thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững; chăm lo, cải thiện đời sống nhân dân; phấn đấu xây dựng tỉnh Ninh Thuận ngày càng giàu đẹp, cùng cả nước giành nhiều thắng lợi hơn nữa trong giai đoạn mới./.

---------------------

(1) Tăng 57 chiếc so với năm 2020, toàn tỉnh có 2.282 chiếc từ 6 m trở lên, trong đó tàu từ 6 m đến dưới 12 m: 909 tàu (khai thác vùng bờ); tàu từ 12 m đến dưới 15 m: 539 tàu (khai thác vùng lộng); tàu trên 15 m: 834 tàu (khai thác vùng khơi).
(2) Gồm: điện mặt trời 37/2.587 MW, điện gió 11/667,3 MW, thủy điện 10/329,5 MW và 286,4 MW điện mặt trời mái nhà.
(3) Lưới điện 500 kV bao gồm 1 dự án (NĐ Vân Phong - NĐ Vĩnh Tân). Lưới điện 220 kV bao gồm 3 dự án (Nha Trang - Tháp Chàm (mạch 1) và (mạch 2); Ninh Phước - Thuận Nam. Lưới điện 110 kV bao gồm 11 dự án.
(4) Năm 2023, ước tính thu hút 2,7 triệu lượt khách du lịch (trong đó, khách du lịch trong nước đạt 2,66 triệu lượt, khách quốc tế đạt 40 nghìn lượt).
(5) Hạ tầng số: 100% số thôn có dân cư được phủ sóng 3G, 4G; triển khai 97 trạm 5G; vận hành hệ thống thông tin kinh tế - xã hội của tỉnh và kết nối với hệ thống báo cáo của Chính phủ theo quy định; tổ chức hội nghị trực tuyến đến cơ sở. Triển khai Đề án 06 của Chính phủ: triển khai tài khoản định danh mức độ 2, sử dụng thẻ căn cước công dân gắn chip, khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế...
(6) Từ xếp hạng 59/63 năm 2020 đến năm 2022 đã tăng thêm 32 bậc, xếp thứ 27/63 tỉnh, thành phố trong cả nước.
(7) Trong 3 năm 2021 - 2023, tỉnh đã huy động được 1.505,7 tỷ đồng để thực hiện Chương trình.
(8) Đội ngũ trí thức trong các tổ chức khoa học và công nghệ và các đơn vị sự nghiệp có hoạt động khoa học và công nghệ là 737 người, trong đó có 5 tiến sĩ, 114 thạc sĩ, 569 người có trình độ đại học, cao đẳng và 49 người có trình độ khác.
(9) Đến cuối năm 2022, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh là 5,93%.