Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị các cấp: Kết quả và kinh nghiệm của Đồng Nai
TCCS - Đồng Nai là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam của đất nước, có vị trí quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Trong những năm qua, quán triệt và thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Trung ương, Đảng bộ tỉnh Đồng Nai triển khai nhiều biện pháp, cách làm sáng tạo trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và đã đạt được những kết quả quan trọng, rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý giá cho chặng đường phát triển tiếp theo.
Những kết quả đạt được
Tỉnh ủy Đồng Nai xác định việc xây dựng nghị quyết cần được thực hiện theo nguyên tắc chỉ ban hành nghị quyết khi thật sự cần thiết; quy trình xây dựng nghị quyết được cấp ủy các cấp đổi mới theo hướng lắng nghe và tiếp thu ý kiến từ thực tiễn của từng địa phương, đơn vị, phát huy tính dân chủ, trí tuệ tập thể. Đối với các nghị quyết có ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân thì tổ chức lấy ý kiến của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Nghị quyết được ban hành phải bảo đảm ngắn gọn, rõ chủ đề, nội dung để thuận lợi cho công tác tổ chức triển khai thực hiện, góp phần khắc phục dần tình trạng ban hành nhiều nghị quyết, có khi trùng lắp.
Thực tiễn cho thấy, mặc dù chủ trương, nghị quyết là đúng, nhưng do chỉ đạo tổ chức triển khai không tốt, nên nghị quyết không đi vào cuộc sống. Nhận thức được điều này, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã cải tiến khâu tổ chức thực hiện nghị quyết theo hướng tập trung, kiên quyết và dứt điểm. Để đổi mới công tác học tập, quán triệt nghị quyết, tiết kiệm thời gian, chi phí tổ chức của các đơn vị, địa phương, song vẫn bảo đảm truyền tải đầy đủ các nội dung quan trọng đến cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo tăng cường sử dụng phương tiện công nghệ hiện đại, đặc biệt là ứng dụng các hình thức trực tuyến, truyền hình trực tiếp, phát hành các đĩa DVD đến tận các chi bộ, đảng bộ cơ sở...; xây dựng đồng bộ quy chế làm việc của cấp ủy, xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu cấp ủy; quy định chặt chẽ mối quan hệ giữa cấp ủy, chính quyền, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội cùng cấp... Cùng với đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy còn ban hành Quy định về thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và trong công tác cán bộ; Quy định về cải cách hành chính ở một số lĩnh vực trong hoạt động của Đảng bộ tỉnh. Những quy định này đã mang lại hiệu quả tích cực, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo và góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ của các cấp ủy, tổ chức đảng.
Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết của Đảng được tăng cường nhằm bảo đảm các nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống. Định kỳ 6 tháng, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành kế hoạch chỉ đạo công tác tự kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng đối với cấp ủy trực thuộc tỉnh; cuối tháng 12 hằng năm, thành lập các đoàn kiểm tra, đánh giá tình hình và kết quả lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của các đảng bộ trực thuộc để xét khen thưởng dựa trên bộ tiêu chí đánh giá cụ thể theo nhóm (gồm có 3 nhóm: các đảng ủy trực thuộc, các đảng bộ có kinh tế phát triển nhanh và các đảng bộ có tỷ lệ trong lĩnh vực nông nghiệp cao).
Việc kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và chính quyền các cấp được quan tâm chỉ đạo thông qua nhiều hình thức khác nhau, tập trung vào các lĩnh vực, như giám sát thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân...; đồng thời tiến hành các hoạt động mang tính chất phản biện xã hội; nêu ý kiến đối với dự thảo các chủ trương của cấp ủy, chính quyền các cấp. Ban Thường vụ Tỉnh uỷ chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp nhằm tăng cường, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở; tạo điều kiện tốt cho nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền và hoàn thiện các chính sách, dự án, kế hoạch có liên quan đến đời sống của nhân dân; qua đó huy động sức mạnh của toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương; xây dựng kế hoạch, chương trình cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm, xác định những nhiệm vụ mang tính đột phá để tập trung thực hiện. Cùng với đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã phân công các đồng chí cấp ủy viên phụ trách địa bàn, đơn vị thường xuyên kiểm tra, giám sát; giao các cơ quan tham mưu, các đảng đoàn, ban cán sự đảng tùy theo chức năng, nhiệm vụ được giao mà tập trung chỉ đạo, đôn đốc cấp dưới triển khai thực hiện; chủ động nắm tình hình để phối hợp giải quyết theo thẩm quyền hoặc tham mưu, đề xuất ban thường vụ, thường trực cấp ủy chỉ đạo giải quyết những vấn đề khó khăn, bức xúc ở cơ sở. Thông qua các buổi giao ban hằng quý, Ban Thường trực Tỉnh ủy kịp thời đưa ra ý kiến chỉ đạo giải quyết những khó khăn, vướng mắc, định hướng các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc tập trung triển khai thực hiện cho hiệu quả.
Công tác cán bộ có nhiều đổi mới, khắc phục được nhiều hạn chế, bất cập, nhất là sau kiểm điểm theo tinh thần các nghị quyết các hội nghị Trung ương 4 khóa XI và khóa XII của Đảng. Căn cứ tình hình thực tế, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tập trung rà soát, điều chỉnh, hoàn thiện các quy định liên quan đến công tác cán bộ. Kết quả cho thấy, vai trò, thẩm quyền của người đứng đầu được phát huy tốt trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và các khâu trong công tác cán bộ được thực hiện ngày càng tốt hơn so với trước, góp phần nâng cao chất lượng công tác cán bộ trong hệ thống chính trị. Một số chủ trương thí điểm về công tác cán bộ được đẩy mạnh thực hiện, đến nay toàn tỉnh có 29/171 xã, phường, thị trấn thực hiện bí thư đảng ủy kiêm chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã; có 2/11 huyện và 83/171 xã, phường, thị trấn thực hiện bí thư cấp ủy kiêm chủ tịch hội đồng nhân dân; bố trí 7/11 bí thư cấp ủy huyện, 95/171 bí thư cấp ủy xã không là người địa phương; từng bước khắc phục tình trạng trưởng ấp, khu phố chưa là đảng viên, tiến tới thực hiện mô hình bí thư chi bộ kiêm trưởng ấp, khu phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận (toàn tỉnh hiện có 615/962 trưởng ấp, khu phố là đảng viên).
Cùng với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tập trung xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Các chủ trương của Đảng về sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở được triển khai thực hiện nghiêm túc, linh hoạt với quyết tâm chính trị cao. Nghị quyết, kết luận của Trung ương về tổ chức bộ máy được Tỉnh ủy cụ thể hóa thành kế hoạch để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Nhận thức rõ việc sắp xếp tổ chức bộ máy là vấn đề lớn, khó, phức tạp, tác động đến nhiều đối tượng, vì vậy việc xây dựng kế hoạch thực hiện đã được Tỉnh ủy tiến hành chặt chẽ, lấy ý kiến rộng rãi, tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động trong toàn Đảng bộ(1). Mỗi kế hoạch đều xác định rõ những nội dung, nhiệm vụ, những việc cần làm ngay, những việc cần thực hiện theo lộ trình để mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị đề ra kế hoạch, giải pháp tổ chức thực hiện đạt được kết quả cao nhất. Đồng thời, Tỉnh ủy chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng, các cấp ủy viên, đảng viên là thủ trưởng các cơ quan, đơn vị căn cứ kế hoạch của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh xây dựng, cụ thể hóa thành kế hoạch, chương trình hành động, tổ chức thực hiện tại đơn vị, địa phương; thống nhất quan điểm chỉ đạo việc tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị từ tỉnh đến cơ sở phải trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm trước Tỉnh ủy trong việc tổ chức thực hiện tại đơn vị, địa phương; lấy kết quả lãnh đạo thực hiện Nghị quyết của Trung ương, kế hoạch của Tỉnh ủy là một trong những tiêu chí để đánh giá, xếp loại hằng năm đối với tập thể, cá nhân. Định kỳ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tiến hành kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện các kế hoạch, qua đó kịp thời nắm bắt tình hình, đôn đốc các đơn vị, địa phương nhằm bảo đảm tiến độ đề ra và tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện.
Đối với việc sắp xếp tổ chức đảng, căn cứ hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương, Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo các cấp ủy kiện toàn, sắp xếp mô hình tổ chức cơ sở đảng phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng tổ chức cơ sở đảng, gắn công tác xây dựng Đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và các đoàn thể chính trị - xã hội ở đơn vị, địa phương, như sắp xếp các tổ chức cơ sở đảng ở các sở, ngành trực thuộc ủy ban nhân dân tỉnh; các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con; sắp xếp theo mô hình đảng ủy khối theo Hướng dẫn số 38-HD/BTCTW, ngày 9-3-2010, của Ban Tổ chức Trung ương. Việc sắp xếp, kiện toàn đã giúp giảm đầu mối, giảm số lượng tổ chức cơ sở đảng; vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy trên từng lĩnh vực được tổ chức triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả. Ngoài ra, tỉnh khắc phục tình trạng ấp, khu phố chưa có tổ chức đảng. Đến nay, 962/962 ấp, khu phố đã có tổ chức đảng, trong đó 932/962 tổ chức đảng ấp, khu phố có cấp ủy, đạt tỷ lệ 96,88%.
Đối với việc sắp xếp tổ chức bộ máy các cơ quan, đơn vị trước khi có Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” (gọi tắt là Nghị quyết số 18) và Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII “Về tiếp tục đổi mới tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập” (gọi tắt là Nghị quyết số 19), Ban Thường vụ Tỉnh ủy chủ động chỉ đạo rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đối với từng cơ quan, đơn vị; kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan khối đảng, nhà nước, đoàn thể cấp tỉnh, cấp huyện theo quy định của Điều lệ Đảng, Quy định số 29-QĐ/TW, ngày 25-7-2016, của Ban Chấp hành Trung ương quy định thi hành Điều lệ Đảng, các quy định của Ban Bí thư Trung ương Đảng, nghị định của Chính phủ và thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành. Trong năm 2016 và 2017, tỉnh đã tiến hành sáp nhập, giải thể một số đơn vị sự nghiệp thuộc huyện và các sở, ngành của tỉnh.
Quán triệt Nghị quyết số 18 và Nghị quyết số 19 của Trung ương, Tỉnh ủy triển khai, thực hiện nghiêm túc các nội dung chỉ đạo và có vận dụng linh hoạt vào tình hình thực tế của địa phương. Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo sửa đổi, bổ sung một số quy định hiện hành và ban hành một số quy định mới hỗ trợ việc sắp xếp, bố trí cán bộ, như quy định số lượng, chức danh, chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ấp, khu phố; quy định tiêu chuẩn, quản lý, sử dụng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã; hướng dẫn kiêm nhiệm công việc đối với chức danh cán bộ, công chức và người hoạt động không chuyên trách cấp xã. Theo đó, đối với cán bộ, công chức cấp xã kiêm nhiệm một trong các chức danh cán bộ, công chức cấp xã mà giảm định suất quy định thì được hưởng 20% mức lương hiện hưởng; đối với cán bộ, công chức, những người hoạt động không chuyên trách kiêm nhiệm một trong các chức danh không chuyên trách mà giảm định suất thì được hưởng 50% mức phụ cấp theo trình độ chuyên môn.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị, địa phương thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy, trong khi chờ quy định khung của Trung ương và Chính phủ, Tỉnh ủy thống nhất thực hiện số lượng người để thành lập phòng (ban) thuộc các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh. Đối với các cơ quan khối đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, tối thiểu 5 người mới được thành lập, đối với cơ quan khối nhà nước tối thiểu là 8 người; đối với các phòng không đủ biên chế để bố trí hoặc chức năng, nhiệm vụ có tính chất tương đồng thì xem xét sáp nhập; phòng có số lượng từ 8 đến 10 người bố trí 1 phó trưởng phòng, từ 11 người trở lên bố trí 2 phó trưởng phòng; khuyến khích các cấp, các ngành kiện toàn tổ chức, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế theo tình hình của đơn vị. Đồng thời, Tỉnh ủy cũng ban hành hướng dẫn thực hiện việc sắp xếp, bố trí cán bộ trong quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy ở các đơn vị, địa phương theo Nghị quyết số 18 và Nghị quyết số 19, trong đó thống nhất chủ trương khi sáp nhập, số lượng cấp phó của cơ quan mới không vượt quá số lượng cấp phó hiện có của các cơ quan sáp nhập; các đơn vị, địa phương xây dựng lộ trình sắp xếp, bố trí cán bộ để đến năm 2020 có số lượng cấp phó theo quy định, các đồng chí là cấp trưởng (hoặc cấp phó) có đơn tự nguyện không giữ chức vụ ở cơ quan mới sau khi sáp nhập hoặc được điều chuyển giữ chức vụ thấp hơn thì được bảo lưu phụ cấp chức vụ đến hết thời hạn bổ nhiệm; ban hành Quy định về chế độ, chính sách hỗ trợ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thôi việc theo nguyện vọng khi thực hiện Nghị quyết số 18 và Nghị quyết số 19 của Trung ương (dự kiến đến ngày 31-12-2021, giải quyết khoảng 5.462 người với tổng kinh phí khoảng 647 tỷ đồng). Ngoài ra, để bảo đảm cho các đơn vị hoạt động ổn định, nâng cao chất lượng và khắc phục tình trạng lắp ghép cơ học, trong các quyết định phê duyệt Đề án sắp xếp tổ chức bộ máy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy hoặc Ủy ban nhân dân tỉnh đều có chỉ đạo các cơ quan, đơn vị khẩn trương xây dựng quy chế hoạt động (quy chế làm việc) theo cơ cấu tổ chức bộ máy mới, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của tập thể, cá nhân, bố trí lại đội ngũ cán bộ theo đúng vị trí việc làm.
Qua triển khai thực hiện các nội dung trên, đến nay các cơ quan khối đảng, đoàn thể tỉnh về cơ bản đã hoàn thành sắp xếp tổ chức bộ máy (giảm 17 phòng, 53 chức danh lãnh đạo cấp phòng). Đối với cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh đã có 17/21 đơn vị hoàn thành sắp xếp tổ chức bộ máy (giảm 33 phòng thuộc sở; 19 phòng thuộc đơn vị trực thuộc sở, giảm 53 chức danh lãnh đạo cấp phòng); đối với các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh có 1/9 đơn vị hoàn thành sắp xếp tổ chức bộ máy (giảm 6 phòng, 12 chức danh lãnh đạo cấp phòng); đối với các đơn vị sự nghiệp trực thuộc các sở, ngành đã giảm 30 đơn vị sự nghiệp; giảm 49 đầu mối phòng/khoa của đơn vị sự nghiệp trực thuộc; giảm 18 nhân sự lãnh đạo đơn vị sự nghiệp, 68 chức danh lãnh đạo cấp phòng; thực hiện chuyển đổi sang tự chủ tài chính 7 đơn vị; cổ phần hóa đối với Trung tâm Đăng kiểm xe cơ giới và Bến xe thành phố Biên Hòa. Các cấp ủy huyện đã chủ động tiến hành rà soát, sắp xếp tổ chức bộ máy, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở các đơn vị trực thuộc, kết quả giảm 41 lãnh đạo cấp phòng.
Bên cạnh sắp xếp giảm đầu mối, tỉnh triển khai thực hiện mô hình nhất thể hóa một số chức danh lãnh đạo, quản lý, như trưởng ban tuyên giáo cấp ủy đồng thời là giám đốc trung tâm bồi dưỡng chính trị (đã thực hiện ở 10/11 huyện, 1 huyện đang dự kiến nhân sự); trưởng ban dân vận cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện (5/11 huyện: Long Thành, Thống Nhất, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ, Trảng Bom và thành phố Biên Hòa), đến đại hội Mặt trận Tổ quốc cấp huyện nhiệm kỳ 2019 - 2024 sẽ thực hiện thêm 3 huyện và ở cấp tỉnh; dự kiến thực hiện mô hình trưởng ban tổ chức cấp ủy đồng thời là trưởng phòng nội vụ ở 5/11 huyện vào quý III - 2019; mô hình chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cấp ủy đồng thời là chánh thanh tra ở 2/11 huyện vào quý III - 2019; thực hiện bố trí giám đốc các sở: y tế, giáo dục và đào tạo, thông tin và truyền thông kiêm nhiệm chức danh Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy; thực hiện kiêm nhiệm công việc đối với 28 chức danh cán bộ, công chức và người hoạt động không chuyên trách cấp xã ở hầu hết các địa phương (đã giảm được 195 định suất, góp phần tăng thu nhập cho cán bộ, công chức cấp xã).
Nhìn chung, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống trị các cấp đã phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, hạn chế rõ rệt tình trạng buông lỏng lãnh đạo hoặc bao biện làm thay của cấp ủy và tình trạng thụ động, ỷ lại, trông chờ vào sự chỉ đạo của cấp ủy đối với từng tổ chức trong hệ thống chính trị; tổ chức bộ máy được sắp xếp, kiện toàn, từng bước tinh gọn đầu mối, giảm bớt khâu trung gian, tập trung đầu mối giải quyết công việc, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương(2).
Một số bài học kinh nghiệm
Một là, các cấp ủy tập trung lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị - tư tưởng và công tác dân vận nhằm tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động trong toàn Đảng bộ, sự đồng thuận ở mỗi cơ quan, đơn vị và cả xã hội về việc tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, coi đây là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với sự phát triển của tỉnh. Thực tế cho thấy, nhận thức đúng đắn của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, đơn vị và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân chính là nhân tố quan trọng để thực hiện đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ và sắp xếp tổ chức bộ máy ở địa phương được thành công.
Hai là, sắp xếp tổ chức bộ máy phải gắn chặt với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phương thức hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Sau khi kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy, phải xây dựng quy chế hoạt động, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của tập thể và từng cá nhân, không để trùng lắp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ và phải duy trì thực hiện nghiêm túc quy chế hoạt động.
Ba là, bám sát các chủ trương, nghị quyết, quan điểm chỉ đạo của Trung ương và vận dụng linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Trong quá trình tổ chức thực hiện, chú ý những yêu cầu về nhiệm vụ chính trị ở từng giai đoạn, bảo đảm tính ổn định, tránh chủ quan, nóng vội, đồng thời nhanh chóng thay đổi nếp nghĩ, cách làm không còn phù hợp. Thường xuyên rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy định và chủ động ban hành quy định mới theo thẩm quyền làm cơ sở để thực hiện. Phải có cơ chế, chính sách phù hợp, giải quyết tốt mối quan hệ giữa sắp xếp tổ chức bộ máy với việc bảo đảm quyền lợi của cán bộ.
Bốn là, phải có quyết tâm chính trị cao, xác định rõ vai trò, trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu. Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị phải phát huy vai trò, trách nhiệm, trực tiếp chỉ đạo và thường xuyên kiểm tra, giám sát việc triển khai và tổ chức thực hiện tại đơn vị, địa phương; bên cạnh đó, phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của cơ quan tham mưu trong đề xuất các biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy cho thật phù hợp và hiệu quả.
Năm là, tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện tinh gọn bộ máy ở các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị. Chủ trì sơ kết, tổng kết, đúc kết kinh nghiệm; xử lý kịp thời những đơn vị, cá nhân, nhất là người đứng đầu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định, không đạt mục tiêu tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế; lấy kết quả thực hiện là một trong những tiêu chí hàng đầu để đánh giá, xếp loại hằng năm đối với tập thể, cá nhân./.
------------------------------
(1) Lấy ý kiến các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc, tổ chức các hội nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy, hội nghị cán bộ chủ chốt tỉnh và Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh thảo luận, thông qua
(2) Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 - 2018 của tỉnh Đồng Nai đạt 8,1%/năm, cao hơn mức tăng bình quân chung cả nước; năm 2017, tỉnh Đồng Nai xếp thứ 3 về chỉ số cải cách hành chính, tăng 40 bậc so với năm 2012, đời sống nhân dân được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người năm 2018 đạt 4.226 USD, tăng hơn 2 lần so với năm 2012,...
Tự phê bình và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Ý nghĩa định hướng cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay  (10/12/2019)
Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng bộ Công an Trung ương trong tình hình mới  (01/12/2019)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển