Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng bộ Công an Trung ương trong tình hình mới
TCCS - Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng Đảng và hoạt động lãnh đạo của Đảng. Với lực lượng công an, để hoàn thành nhiệm vụ nặng nề mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, Đảng bộ Công an Trung ương đặc biệt coi trọng công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, qua đó góp phần tích cực xây dựng lực lượng công an nhân dân tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân; xây dựng lực lượng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
1- Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta đã khẳng định: “Công tác kiểm tra có vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng”(1). Vì lãnh đạo không chỉ là việc định ra đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị, tổ chức thực hiện và bố trí cán bộ, mà còn là kiểm tra, giám sát nhằm bảo đảm đường lối, chính sách được xác định đúng, được quán triệt và thực hiện thắng lợi trên thực tiễn. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, vừa là chức năng lãnh đạo, vừa là trách nhiệm, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức và đạo đức, để Đảng luôn xứng đáng “là đạo đức, là văn minh”. Người khẳng định, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là yếu tố quan trọng hàng đầu bảo đảm cho Đảng tồn tại và phát triển. Thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới giúp Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bởi lẽ, Người nhận rõ hai mặt của quyền lực: một mặt, nếu biết sử dụng đúng, quyền lực sẽ là sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng cái mới trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; mặt khác, quyền lực cũng có sức phá hoại rất ghê gớm, nếu người nắm quyền lạm dụng quyền lực, chạy theo quyền lực, sẽ dẫn đến tham nhũng, thoái hóa, biến chất... Chủ tịch Hồ Chí Minh từng cảnh báo: Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân.
Khẳng định tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: điều hết sức quan trọng, có tính quyết định để bảo đảm việc thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng là phải tổ chức thực hiện có hiệu quả và kiểm tra việc thực hiện một cách nghiêm túc. Người chỉ rõ: “Nếu tổ chức việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như có ngọn đèn “pha”. Bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ”(2). Theo Người, chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra. Các cấp, các ngành nếu tổ chức tốt việc kiểm tra, giám sát thì không chỉ giúp cho lãnh đạo nắm chắc chất lượng đội ngũ cán bộ, ngăn ngừa khuyết điểm, sai lầm, giúp đỡ sửa chữa kịp thời nếu xảy ra, mà còn huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to lớn của nhân dân. Người căn dặn: “Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”(3).
Cùng với kiểm tra, giám sát, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặc biệt coi trọng kỷ luật và thi hành kỷ luật trong Đảng. Luận giải căn nguyên sâu xa của những khuyết điểm, sai lầm trong Đảng, Người chỉ rõ: “Đảng ta là một đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng”(4). Vì vậy, kỷ luật và thi hành kỷ luật trong Đảng là một tất yếu khách quan để giáo dục, phòng ngừa, ngăn chặn thiếu sót, khuyết điểm, sai lầm; sửa chữa thói hư, tật xấu; thải loại những kẻ thoái hóa, biến chất, bảo đảm sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thống nhất ý chí và hành động, lời nói và việc làm của các tổ chức đảng và đảng viên, củng cố sự đoàn kết và giữ vững kỷ cương của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Đoàn kết là sức mạnh của Đảng, còn kỷ luật của Đảng là một điều kiện, nhân tố quan trọng để giữ vững sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, nâng cao khả năng lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Người cho rằng: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người. Đó là nhờ có kỷ luật”(5). Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm minh của cán bộ, đảng viên. Tất cả đảng viên đều phải tự giác tuân thủ, không phân biệt đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý hay đảng viên thường; đảng viên ở cơ sở hay đảng viên trong các cơ quan trung ương. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác. Các đồng chí chúng ta cần phải ra sức giữ gìn kỷ luật sắt của Đảng”(6), “Về mặt tổ chức: Đảng phải có kỷ luật rất nghiêm. Kiên quyết chống những hiện tượng phớt kỷ luật, phớt tổ chức”(7). Theo Người: “Không ai bắt buộc ai vào Đảng làm chiến sĩ xung phong. Đó là do sự “tự giác”, lòng hăng hái của mỗi người mà tình nguyện làm đảng viên, làm chiến sĩ xung phong”(8). Trước khi trở thành đảng viên, mỗi cán bộ, đảng viên bản thân đã là một công dân tốt, một đoàn viên tốt, quần chúng tiêu biểu, tự giác chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ; khi là đảng viên thì phải chấp hành nghiêm mọi sự phân công của Đảng, tự giác phục tùng kỷ luật của Đảng, gương mẫu hoàn thành nhiệm vụ được giao. Yêu cầu cao nhất của kỷ luật đảng là chấp hành nghị quyết và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức của Đảng. Mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật của Đảng, mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và cơ quan chính quyền.
Kế thừa và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đặc biệt coi trọng công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, coi đó là một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng, từ đó ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị chỉ đạo công tác này trên thực tiễn. Đảng xác định công tác kiểm tra là “một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng”(9), là “một khâu quan trọng của tổ chức thực hiện... là biện pháp hiệu nghiệm để khắc phục bệnh quan liêu”(10). Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Các cấp ủy, tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng”(11); đồng thời chỉ rõ: “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và hoạt động của hệ thống ủy ban kiểm tra các cấp. Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa ủy ban kiểm tra đảng với các tổ chức đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên”(12). Đến Đại hội XII, Đảng ta đặt ra yêu cầu: “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử và xử lý nghiêm, đúng pháp luật các hành vi tham nhũng, lãng phí. Tăng cường giám sát và phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan bảo vệ pháp luật”(13).
2- Thời gian qua, với sự nỗ lực không ngừng của Đảng, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng đã đạt được những kết quả quan trọng, đóng góp tích cực vào việc ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và kiểm soát quyền lực trong thực thi nhiệm vụ, công vụ, quyền hạn được giao, nhất là kiểm soát việc lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực để trục lợi. Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp tiến hành kiểm tra, giám sát thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí; kiểm tra việc tu dưỡng, rèn luyện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; gợi ý kiểm điểm và kiểm tra việc khắc phục các hạn chế, yếu kém qua kiểm điểm được chỉ ra tại các đại hội, hội nghị, đặc biệt theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; giải quyết tố cáo,... và giải quyết một số vụ, việc nổi cộm trong việc thực thi nhiệm vụ, công vụ, quyền hạn được giao của một số cán bộ, đảng viên.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, Điều lệ Đảng khóa XI có những bổ sung, sửa đổi rất quan trọng về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng, tập trung trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng khóa XI (ban hành theo Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 1-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương), nhằm khẳng định tính pháp lý cao nhất, đồng thời khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm và những biểu hiện lệch lạc trong việc thi hành kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng còn tồn tại ở nhiều nhiệm kỳ trước. Thực hiện Quy định số 30-QĐ/TW, ngày 26-7-2016, của Ban Chấp hành Trung ương “Thi hành Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng”, ngày 1-6-2017, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 86-QĐ/TW “Giám sát trong Đảng”. Quy định này thay thế Quyết định số 68-QĐ/TW, ngày 21-3-2012, của Bộ Chính trị khóa XI. Theo quy định mới, mục đích của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng là: 1- Chủ động nắm chắc tình hình và đánh giá đúng hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý; đề ra các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao; góp phần bổ sung, sửa đổi các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước phù hợp với thực tiễn. 2- Phát huy ưu điểm; phát hiện hạn chế, thiếu sót, khuyết điểm và nguyên nhân để kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh, sửa chữa, khắc phục; cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên từ khi còn manh nha. 3- Góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác(14).
Với tinh thần tích cực, khẩn trương, nghiêm túc, trách nhiệm, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị được thành lập “với mong muốn đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng thêm một bước”(15), góp phần tích cực trong khắc phục tình trạng suy giảm về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên của Đảng. Trong nhiệm kỳ Đại hội XI, có 56.572 đảng viên bị xử lý kỷ luật, trong đó có 16.259 cấp ủy viên các cấp. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tiến hành kiểm tra 13 tổ chức đảng và 33 đảng viên. Qua kiểm tra, kết luận các tổ chức đảng, đảng viên đều có khuyết điểm, vi phạm, trong đó đề nghị thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách 3 tổ chức đảng, thi hành kỷ luật 13 đảng viên (khiển trách 7, cảnh cáo 6). Ủy ban kiểm tra các địa phương, đơn vị đã kiểm tra 15.898 tổ chức đảng và 55.217 đảng viên, trong đó số tổ chức đảng có vi phạm là 10.478, phải thi hành kỷ luật 791 tổ chức đảng; số đảng viên có vi phạm là 42.757, trong đó phải thi hành kỷ luật 20.344 trường hợp(16).
Tuy vậy, tại Đại hội XII, Đảng ta một lần nữa chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn”(17). Hơn lúc nào hết, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng; kiên quyết xử lý nghiêm minh các hành vi thiếu đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên; mạnh dạn đưa ra khỏi tổ chức những người không đủ phẩm chất, năng lực và uy tín. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng xác định phải: “Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; cán bộ, đảng viên vi phạm phải có hình thức xử lý kịp thời, chính xác, bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng. Cấp ủy các cấp chỉ đạo nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên; đồng thời, tiến hành rà soát, sàng lọc và đưa ngay những người không còn đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng”(18).
Chỉ thị số 28-CTTW, ngày 21-1-2019, của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XII, “Về nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng” đã nhận định: Còn một bộ phận đảng viên thiếu gương mẫu, thiếu bản lĩnh, bị cám dỗ bởi lợi ích cá nhân, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; có việc làm, phát ngôn sai nguyên tắc, trái với Cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng; một số có biểu hiện dao động, hoài nghi về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Những khuyết điểm, yếu kém đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên; làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Với quyết tâm đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tình trạng suy giảm về đạo đức, lối sống, “hình thành cơ chế phòng ngừa ngày càng chặt chẽ, hiệu quả, góp phần ngăn chặn, răn đe, cảnh tỉnh để “không thể tham nhũng””(19), từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến đầu năm 2019, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 45 nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phòng, chống tham nhũng; Quốc hội đã thông qua 45 luật, pháp lệnh, 46 nghị quyết; Chính phủ đã ban hành 511 nghị định, 413 nghị quyết, 160 quyết định nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng; đã thi hành kỷ luật 53.306 đảng viên với hơn 60 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 16 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, thậm chí xử lý đến cả Ủy viên Bộ Chính trị(20).
Như vậy, công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng về cơ bản đã được tiến hành nghiêm túc, chặt chẽ, đạt hiệu quả thiết thực. Công tác kiểm tra, giám sát toàn diện cả tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực công tác và kết quả hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao... đã phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, tổ chức trong tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng đối với cán bộ, đảng viên, nhất là vai trò của cơ quan, ủy ban kiểm tra của cấp ủy các cấp, của tổ chức đảng, quần chúng nhân dân; gắn kiểm tra, giám sát với thi hành kỷ luật đảng; kiên quyết xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm, những tổ chức đảng yếu kém trong thực hiện nhiệm vụ.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng thời gian qua vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định, ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín, năng lực lãnh đạo của Đảng: “Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái”(21). Có nơi lựa chọn đối tượng kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm lại né tránh không kiểm tra cấp ủy viên cùng cấp hoặc cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý và tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp, chủ yếu lựa chọn cán bộ, đảng viên không có chức vụ để kiểm tra hoặc kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên cách nhiều cấp để kiểm tra được nhiều đảng viên và dễ xử lý khi có vi phạm.
3- Là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ an ninh quốc gia, thời gian qua, lực lượng công an nhân dân luôn đi đầu, bám sát và phục vụ việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế - xã hội và mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Kết quả trong lãnh đạo, chỉ đạo các mặt công tác, chiến đấu, xây dựng lực lượng công an nhân dân thời gian qua được tạo nên bởi nhiều nhân tố, trong đó công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trong Đảng bộ Công an nhân dân đóng vai trò hết sức quan trọng.
Thực hiện phương châm “giám sát phải mở rộng”, “kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm”, xem xét xử lý kỷ luật “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, với tinh thần quyết liệt, chủ động, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp trong toàn Đảng và Đảng bộ Công an Trung ương đã tiến hành công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng một cách toàn diện, đồng bộ, thống nhất, xuyên suốt, bảo đảm nguyên tắc, quy trình quy định. Đảng ủy Công an Trung ương đã kịp thời ban hành các nghị quyết, chương trình công tác của nhiệm kỳ, hằng năm quyết định ban hành chương trình công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện nghiêm túc; kịp thời ban hành quy chế, quy định, quy trình, hướng dẫn phục vụ công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng trong Đảng bộ Công an Trung ương(22); cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã nghiêm túc quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát và ban hành các văn bản thuộc thẩm quyền cấp mình để lãnh đạo, chỉ đạo hiệu quả công tác này; Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương và ủy ban kiểm tra các cấp trong Công an nhân dân đã thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình(23).
Từ đầu nhiệm kỳ 2015 - 2020 đến nay, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp trong Đảng bộ Công an Trung ương đã kiểm tra, giám sát chuyên đề đối với 106 tổ chức đảng, 1.301 đảng viên. Nội dung kiểm tra chủ yếu tập trung vào lãnh đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” và Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng, chấp hành quy chế làm việc, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết nội bộ, thực hiện Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 1-11-2011, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, “Về những điều đảng viên không được làm”; thực hiện nghị quyết của Đảng trên lĩnh vực an ninh, trật tự; về trách nhiệm nêu gương; việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đồng thời, xem xét thi hành kỷ luật đối với 727 đảng viên và 02 tổ chức đảng, trong đó có 24 đồng chí là cấp ủy viên các cấp, kết quả xử lý kỷ luật bằng các hình thức: khiển trách 466 đảng viên; cảnh cáo 208 đảng viên; khai trừ 53 đảng viên. Nội dung vi phạm của đảng viên chủ yếu là vi phạm nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng, quy chế làm việc, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết nội bộ, vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm; vi phạm trong điều tra; việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; vi phạm quy chế, quy trình công tác; cá biệt có trường hợp vi phạm pháp luật nghiêm trọng; sử dụng trái phép chất ma túy...
Hiện nay, bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và các mối đe dọa, thách thức an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống tác động đan xen, chuyển hóa lẫn nhau; hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn ngày càng tăng, tạo ra cả thời cơ và thách thức mới. Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, như nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp; tình hình chính trị - xã hội ở một số địa bàn còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định.
Trước yêu cầu của tình hình mới, công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng bộ Công an Trung ương cần tập trung vào một số nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm sau:
Một là, công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng trong Đảng bộ phải luôn bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Các chương trình kiểm tra, giám sát phải bảo đảm thực hiện đồng bộ, tránh nơi làm, nơi không làm hoặc có làm nhưng quyết tâm không cao.
Hai là, nâng cao nhận thức về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng cho các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, ủy ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra trong toàn Đảng bộ là yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết hiện nay. Có nhận thức đúng thì mới thực hiện đúng, đầy đủ, sát hợp và có kết quả các nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Để nâng cao nhận thức, trước hết cấp ủy các cấp, nhất là người đứng đầu cấp ủy, một mặt, phải thường xuyên nghiên cứu nắm vững Điều lệ Đảng, các quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; mặt khác, thực sự coi trọng và tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo ủy ban kiểm tra thực hiện có chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; chú trọng kết hợp giữa mở rộng giám sát với xác định nộỉ dung trọng tâm để kiểm tra cho phù hợp với thực tiễn trong từng thời kỳ. Cần đặc biệt coi trọng tổ chức nghiên cứu, quán triệt các quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; tăng cường tổ chức bồi dưỡng, tập huấn, thi tìm hiểu về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng với sự tham gia của tổ chức đảng, cấp ủy viên, cán bộ kiểm tra các cấp và đội ngũ đảng viên, để tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; chú trọng đổi mới cách tuyên truyền, giáo dục về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và vị thế của ủy ban kiểm tra các cấp.
Ba là, kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp trong Ðảng bộ Công an Trung ương đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, mô hình thống nhất từ Trung ương đến cấp quận, huyện và tương đương, bảo đảm hoạt động có hiệu quả, hiệu lực, ngang tầm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao gắn với thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 15-3-2018, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Nghị định số 01/NĐ-CP, ngày 6-8-2018, của Chính phủ, “Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an”; Đề án số 08-ĐA/ĐUCA, ngày 10-8-2018, của Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương, “Về kiện toàn tổ chức đảng và cấp ủy trong Công an nhân dân”; Hướng dẫn số 13-HD/UBKTTW, ngày 27-2-2015, của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, “Cơ cấu tổ chức và số lượng ủy viên ủy ban kiểm tra của đảng ủy cấp trên cơ sở và cơ sở thuộc Đảng bộ Công an Trung ương”,...
Bốn là, đổi mới nội dung, phương pháp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của Đảng bộ. Thời gian tới công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng bộ Công an Trung ương cần tập trung vào công tác tổ chức và cán bộ, kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII gắn với việc tổ chức thực hiện Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012, của Ban Bí thư, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”, Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”, Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, của Bộ Chính trị, “Về một số việc làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”, Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; kiểm tra, giám sát trong công tác cán bộ gắn với thực hiện Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”. Nghiên cứu xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trong Công an nhân dân, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ việc phối hợp, trao đổi, cập nhật dữ liệu, thông tin về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trên mạng diện rộng của Ðảng, của Bộ Công an.
Năm là, quan tâm làm tốt công tác giáo dục, đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát đảng trong Công an nhân dân có phẩm chất, năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp trong Đảng bộ căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, tổ chức biên chế và tình hình đội ngũ cán bộ của mình, lập kế hoạch tạo nguồn, trong đó phải chú ý trước hết đến từng thời kỳ, phù hợp với tình hình, đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ của ủy ban kiểm tra và cơ quan ủy ban kiểm tra. Coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra, chú ý đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, thống nhất chương trình, hệ thống tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra./.
------------------------------
(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, t. 55, tr. 424
(2), (3), (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 637, 363, 301 - 302
(5), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 17
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 280
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 293
(9) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 43, tr. 346
(10) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 47, tr. 472
(11), (12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 262, 263
(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 307
(14) Xem https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Quy-dinh-86-QD-TW-2017-giam-sat-trong-Dang-351711.aspx
(15) Trích Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phiên họp thứ nhất Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, ngày 4-2-2013
(16) Xem: Ủy ban Kiểm tra Trung ương: 70 năm truyền thống ngành kiểm tra Đảng (1948 - 2018), Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2018, tr. 286 - 287
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 185
(18) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 45
(19), (20) Trích Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại phiên họp thứ 15 Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, ngày 21-1-2019
(21) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Sđd, tr. 22
(22) Từ năm 2015 đến nay, Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương đã ban hành 1 nghị quyết, 4 chương trình công tác; 5 quy định, 2 hướng dẫn để chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng trong Đảng bộ Công an Trung ương
(23) Từ năm 2016 đến nay, Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương đã tham mưu giúp Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương tổ chức 24 kế hoạch kiểm tra, giám sát, xem xét thi hành kỷ luật; thực hiện 60 kế hoạch kiểm tra, giám sát chuyên đề; 40 kế hoạch xem xét thi hành kỷ luật theo Điều 32, Điều lệ Đảng; ủy ban kiểm tra các cấp đã tham mưu cho cấp ủy cùng cấp thực hiện 120 kế hoạch kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng; thực hiện 170 kế hoạch kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng theo Điều 32, Điều lệ Đảng
Cấp ủy, chính quyền các cấp thị xã Đông Triều lãnh đạo, tổ chức việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy, tính giản biên chế  (24/11/2019)
Chất vấn và trả lời chất vấn đối với lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, công thương, nội vụ, thông tin và truyền thông  (09/11/2019)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
- Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam