TCCS - Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 coi phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những trọng tâm chính. Nâng cao chất lượng lao động vừa bảo đảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả của doanh nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng sống của người lao động. Trong tiến trình hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, Hà Nội coi trọng xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm Đại học Quốc gia Hà Nội cơ sở Hoà Lạc_Ảnh: TTXVN

Thành phố Hà Nội là địa phương có tốc độ tăng dân số cao so với cả nước. Theo Tổng cục thống kê, ước tính đến hết năm 2021, dân số Thủ đô đạt khoảng 8.330.800 người, tốc độ tăng trung bình 2,2%/năm. Hà Nội có 97,2% dân số trong độ tuổi đang đi học, là địa phương đạt tỷ lệ cao nhất trong cả nước, thể hiện kết quả tích cực trong công tác phổ cập giáo dục của Thủ đô. Điều này cho thấy nguồn nhân lực của Hà Nội sau đào tạo chiếm tỷ lệ khá lớn. Dân số trong độ tuổi lao động tăng nhanh thể hiện cơ cấu dân số vàng trong thời kỳ phát triển.

Một trong những nhiệm vụ đã được xác định tại Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 5-5-2022, của Bộ Chính trị, “Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, đó là “có cơ chế, chính sách thu hút, phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học hàng đầu trong nước và quốc tế vào sự nghiệp xây dựng, phát triển Thủ đô”. Đây là chủ trương có ý nghĩa như một bước đột phá trong việc sử dụng nhân tài và đã được thể chế hóa trong dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi). Vì vậy, việc đưa ra được những giải pháp nhằm thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ góp phần quan trọng vào tiến trình hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng của Thủ đô.

Nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục - đào tạo đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng lao động

Để cải thiện chất lượng lao động của Hà Nội, ngành giáo dục - đào tạo cần phải có những đổi mới sâu rộng trên nhiều cấp học bởi giáo dục và đào tạo là gốc rễ của sức mạnh và sự phát triển, thịnh vượng của quốc gia. Giáo dục đóng vai trò quan trọng đưa Việt Nam trở thành quốc gia đang phát triển thành công trong hơn 35 năm kể từ sau đổi mới. Nhu cầu lao động có tay nghề, chất lượng cao trong bối cảnh cuộc Cách mạnh công nghiệp lần thứ thư đòi hỏi hệ thống giáo dục đại học phải đổi mới kịp thời. Vì vậy, cải thiện, nâng cấp hệ thống giáo dục và đào tạo lao động có tay nghề cao nên được ưu tiên hàng đầu. Giảng dạy, đào tạo sẽ làm cho người lao động trở nên năng động và sáng tạo. Vì vậy, cần thành lập các trung tâm đào tạo nghề kỹ thuật cao để đáp ứng nhu cầu lao động của các ngành kỹ thuật trong tương lai.

Bên cạnh đó, cần đổi mới chương trình đào tạo. Đổi mới phương thức đào tạo và quản trị đại học, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số vào hoạt động giảng dạy và nâng cao năng lực, chất lượng của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý. Cải cách thể chế giáo dục, đào tạo tập trung tháo gỡ 4 nút thắt: 1- Giáo dục hướng nghiệp; 2- Mối quan hệ giữa các cơ sở giáo dục - đào tạo và doanh nghiệp trong giáo dục - đào tạo; 3- Trao quyền tự chủ thực sự cho các cơ sở giáo dục - đào tạo; 4- Chuẩn hóa chất lượng đào tạo theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.

Đổi mới hệ thống giáo dục - đào tạo năng động và linh hoạt là yêu cầu quan trọng để khắc phục khoảng cách về kỹ năng, cũng như thích ứng nhanh chóng với nhu cầu kỹ năng lao động cao hơn. Chú ý đầu tư vào hệ thống giáo dục - đào tạo, trong đó tập trung trước hết là đào tạo lao động mới có chuyên môn kỹ thuật. Tiếp đến là đào tạo lại và đào tạo nâng cao cho những người lao động đã và đang làm việc. Việc đào tạo lại và đào tạo nâng cao sẽ được thực hiện dưới ba hình thức: trong các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp; ngay tại các trường lớp và trong các doanh nghiệp kinh doanh. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia quá trình đào tạo nhân lực đại học và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở giáo dục đại học tại Hà Nội.

Lao động trở thành yếu tố quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Nhờ có nền tảng giáo dục - đào tạo, trong đó có đào tạo nghề, người lao động có thể nâng cao được kiến thức và kĩ năng nghề, qua đó nâng cao năng suất lao động, góp phần phát triển kinh tế. Giáo dục - đào tạo nghề là thành tố quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Muốn có nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường lao động (cùng với các cơ chế chính sách sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực) cần tăng cường đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng.

Đẩy mạnh hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với các trường đại học và cao đẳng dạy nghề

Trong bối cảnh nền kinh tế chuyển dịch theo hướng tập trung vào các ngành công nghệ và kỹ thuật cao, Thủ đô Hà Nội sẽ đối mặt với tình trạng khan hiếm nguồn lao động có chất lượng. Hiện nay, nhiều sinh viên tốt nghiệp nhưng không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp. Vì vậy, cần tăng cường kết nối giữa các trường đại học và cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp cung cấp dự báo nhu cầu sử dụng lao động, đồng thời tham gia vào việc xây dựng nội dung chương trình đào tạo; những điều này có vai trò quan trọng trong công tác giáo dục định hướng nghề nghiệp cho sinh viên.

Các trường đại học của Hà Nội cần nghiên cứu kinh nghiệm đào tạo của các trường đại học ở nước ngoài trong việc xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo gắn chặt với doanh nghiệp. Thông qua những trung tâm đó, sinh viên được học tập ở môi trường gắn với thực tế làm việc của doanh nghiệp. Qua đó, doanh nghiệp liên kết với các trường để tìm nguồn lao động tương lai. Việc đào tạo gắn với nhu cầu doanh nghiệp, thị trường sẽ bảo đảm có việc làm sau khi tốt nghiệp, vừa bảo đảm có nguồn lao động chất lượng, vừa thu hút được sinh viên theo học ở các cơ sở đào tạo. Các trường dạy nghề nên liên kết với doanh nghiệp trong việc đào tạo để tạo cơ hội cho sinh viên tiếp xúc với điều kiện làm việc tại doanh nghiệp.

Để nâng cao chất lượng lao động, các trường đại học và doanh nghiệp cần tiếp tục liên kết, phối hợp xây dựng chương trình giảng dạy, thực hiện các công trình nghiên cứu, triển khai các chương trình thực tập và giới thiệu việc làm cho sinh viên. Điều này không chỉ giúp đổi mới nội dung giảng dạy và tạo ra nguồn lực cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, mà còn giúp nâng cao chất lượng nhân lực theo hướng phù hợp với bối cảnh thực tế hơn.

Tạo môi trường, vị trí thuận lợi cho nhân lực chất lượng cao

Là nền kinh tế mới nổi, Việt Nam cũng đang được hưởng lợi từ dòng lao động có kỹ năng, chất lượng cao từ khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên, người lao động nhập cư gặp phải với một số thách thức, như các biện pháp bảo vệ cho người lao động nhập cư, chi phí tuyển dụng cao tại các trung tâm tuyển dụng, thủ tục di cư tốn kém và kéo dài, hạn ngạch di cư và chính sách việc làm trong nước khiến người lao động không dễ dàng thay đổi công việc.

Chú trọng hơn nữa đến cải thiện chất lượng môi trường làm việc và khuyến khích người lao động phát huy trách nhiệm hơn trong công việc. Có chính sách phụ cấp và đãi ngộ đặc biệt (nhà ở, đào tạo…) cho lao động có trình độ cao, tạo điều kiện cho các tài năng nâng cao thu nhập bằng trí tuệ và năng lực của mình. Có chính sách thu hút các nhà khoa học trình độ cao tham gia công tác giảng dạy, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ tại các cơ sở đào tạo, tổ chức khoa học - công nghệ. Tạo môi trường thuận lợi để nuôi dưỡng và đánh giá cao lao động có chất lượng. Đổi mới cơ bản chính sách thu hút và đãi ngộ lao động có tay nghề, chất lượng cao. Xây dựng chính sách đặc thù để thu hút nhân lực chất lượng cao, sinh viên người Việt Nam đạt kết quả học tập xuất sắc ở nước ngoài về nước phục vụ. Bên cạnh việc thu hút các chuyên gia nước ngoài và lao động trình độ cao đến làm việc tại Hà Nội, cần xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực then chốt gắn với chiến lược công nghiệp hóa đất nước. Chính đội ngũ chuyên gia đầu ngành là thành tố quan trọng trong thành phần nguồn nhân lực chất lượng cao, là cơ sở thúc đẩy và bảo đảm nâng cao chất lượng đào tạo, là lực hút nguồn nhân lực chất lượng cao đến làm việc.

Coi trọng phát triển khoa học - công nghệ là chính sách hàng đầu

Phát triển đào tạo nhân lực chất lượng cao, gắn với phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo được xem là một trong những trọng tâm của Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều chính sách nhìn chung chưa thực sự coi khoa học và công nghệ là động lực, là chìa khóa quan trọng hàng đầu để Việt Nam thoát bẫy thu nhập trung bình nhằm phát triển nhanh và bền vững. Nhân lực chất lượng cao giúp khoa học - công nghệ phát triển ở hai khía cạnh: 1- Nhân lực chất lượng cao trực tiếp tham gia hoạt động trong lĩnh vực khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ giúp quốc gia tạo ra các thành tựu khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo không chỉ ở trong phạm vi quốc gia, mà còn ở phạm vi toàn cầu. Những thành tựu khoa học - công nghệ thường được thể hiện thông qua các phát minh, sáng chế được các doanh nghiệp ứng dụng trong thực tế; qua các giải thưởng được các tổ chức khoa học toàn cầu ghi nhận, như giải Nobel, bản quyền phát minh sáng chế, các công trình xuất bản quốc tế. Kết quả phản ánh rõ trình độ nguồn lao động gắn với trình độ khoa học - công nghệ của quốc gia trên thế giới; 2- Khả năng ứng dụng và tiếp thu khoa học - kỹ thuật của người lao động. Chất lượng nguồn lao động giữ vai trò quan trọng trong việc tham gia sử dụng, ứng dụng khoa học - công nghệ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội để mang lại sự tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề. Nếu chất lượng lao động không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp, nhà đầu tư thì sẽ dẫn tới môi trường đầu tư giảm sút (khó thu hút các nhà đầu tư sử dụng công nghệ trình độ cao). Thậm chí, các vị trí cần nhân lực chất lượng cao sẽ do người nước ngoài nắm giữ. Khi đó, việc học hỏi và đón nhận hiệu ứng tích cực từ hội nhập và nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ càng thấp. Chính vì vậy, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, nguồn nhân lực chất lượng cao là “chìa khóa” hữu hiệu để Hà Nội nâng cao sức cạnh tranh và hội nhập quốc tế.

Bên cạnh đó, cần phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm dựa trên công nghệ ưu tiên và ứng dụng công nghệ cao. Khuyến khích khu vực tư nhân tham gia hoạt động khoa học - công nghệ bằng cách phân bổ nguồn vốn thuận lợi, minh bạch cho các doanh nghiệp và cá nhân. Khi cơ chế thuế, tài chính đủ mạnh thì doanh nghiệp mới thực sự là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia và có thể tập trung đầu tư cho khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn lao động. Tăng tỷ trọng chi cho nâng cao năng lực khoa học  - công nghệ quốc gia, đặc biệt ưu tiên cho công nghệ thông tin và truyền thông. Sản phẩm khoa học - công nghệ của doanh nghiệp Hà Nội cần được hỗ trợ thâm nhập thị trường trong nước và quốc tế. Việt Nam đã có nhiều chương trình phát triển sản phẩm quốc gia, đổi mới công nghệ nhưng về cơ bản chưa có chính sách khuyến khích, hỗ trợ sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam vươn ra thị trường trong nước và thế giới.

Tạo mối liên kết chặt trong quan hệ cung - cầu

Để liên kết thành công kỹ năng, lao động chất lượng với năng suất, tạo việc làm và phát triển, các chính sách phát triển kỹ năng cần hướng tới các mục tiêu: khớp cung với nhu cầu hiện tại về kỹ năng, giúp người lao động và doanh nghiệp điều chỉnh để thay đổi, dự đoán và cung cấp các kỹ năng mới, khác biệt cần thiết trong tương lai.

Mặc dù Hà Nội  có nguồn lao động dồi dào nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn chưa tuyển dụng được đủ số lượng lao động có tay nghề, chất lượng cao, dẫn đến không thể mở rộng hoạt động sản xuất do không phù hợp giữa trình độ tay nghề và nhu cầu của người sử dụng lao động. Vì vậy, cần tăng cường hợp tác công tư, thực hiện các dự án liên quan đến thị trường lao động, thường xuyên đưa ra các phân tích, dự báo xu hướng thị trường, xây dựng nhiều chính sách giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng nguồn lao động. Mặt khác, các doanh nghiệp cần cung cấp thông tin về nhu cầu lao động cho các trường để nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề cần cập nhật các chương trình đào tạo theo nhu cầu thực tế của doanh nghiệp.

Thúc đẩy phát triển hơn nữa thị trường lao động. Trong đó, quan trọng nhất là hoàn thiện khung khổ pháp luật cho thị trường lao động phát triển theo hướng phù hợp với quy luật của thị trường, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tham gia thị trường lao động, nâng cao trình độ, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Phát triển thị trường nhân lực chất lượng cao, trong đó thông tin thị trường minh bạch, công bằng, bảo vệ người lao động và hỗ trợ thông tin để phân bổ nguồn nhân lực hiệu quả. Đồng thời, cung cấp thông tin cung - cầu kịp thời cho công tác đào tạo và các chính sách phù hợp.

Có thể khẳng định, Việt Nam hiện đang trong thời kỳ “dân số vàng” với số lượng lớn sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng mỗi năm; hàng triệu lao động tham gia thị trường lao động có nhu cầu học nghề. Khi thị trường lao động đang được quốc tế hóa và cạnh tranh hơn, đòi hỏi Việt Nam phát triển thị trường lao động có tổ chức với chất lượng lao động cao hơn. Cuộc cạnh tranh trong thời đại cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư  là cuộc cạnh tranh về nhân lực chất lượng cao. Quốc gia có nguồn lao động tốt, đáp ứng nhanh với nhu cầu thay đổi của công nghệ, dùng công nghệ để giải quyết tốt các bài toán của mình thì quốc gia đó sẽ có lợi thế cạnh tranh. Vì vậy, lao động chất lượng cao sẽ là một lợi thế nếu Hà Nội giải quyết tốt bài toán cung - cầu lao động giữa cơ sở đào tạo và thị trường (thị trường trong và ngoài nước), đổi mới đào tạo để đáp ứng sự thay đổi của thời đại. Việc triển khai đồng bộ, triệt để các giải pháp là cơ sở góp phần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho giai đoạn mới của Hà Nội, góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện./.