Giáo dục đạo đức kết hợp với tăng cường kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng
TCCS - Trong mọi giai đoạn cách mạng, đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn luôn có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và toàn Đảng cũng như sự thành bại của cách mạng. Bởi vậy, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên về mọi mặt luôn là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp thiết. Để làm được điều này, trong giai đoạn hiện nay cần kết hợp nhuần nhuyễn giữa giáo dục đạo đức với thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn chú trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, trong đó có việc giáo dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng. Đây là nội dung cơ bản, nền tảng, cốt lõi, nhất quán và xuyên suốt trong quá trình hoạt động của Đảng cũng như trong suốt đời hoạt động, công tác của người cán bộ, đảng viên. Đạo đức cách mạng là cái “gốc” của người đảng viên, là tư cách, phẩm giá của người cán bộ, đảng viên trước Đảng cũng như trước quần chúng. Đánh mất hoặc phai nhạt phẩm chất, giá trị này, người cán bộ, đảng viên không còn đủ tư cách là thành viên của đảng cộng sản chân chính. Nhờ có những phẩm chất đạo đức cách mạng của người cộng sản, lớp lớp cán bộ, đảng viên kiên trung của Đảng ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, thử thách, không nao núng tinh thần trước mọi hoàn cảnh, sẵn sàng hy sinh, cống hiến cho sự nghiệp chung của Đảng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, cách mạng và nhân dân giao phó, góp phần vào những thắng lợi to lớn của sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên không phải tự nhiên mà có, đó là kết quả của quá trình giác ngộ, tu dưỡng, giáo dục, học tập, rèn luyện bền bỉ, kiên trì, thậm chí phải biết hy sinh những nhu cầu, lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ, khước từ, xa rời những cám dỗ vật chất tầm thường, kết hợp với sự giáo dục, rèn giũa thường xuyên của tổ chức đảng mới đạt được.
Với tính đặc thù và yêu cầu cao về phẩm chất, những năm qua, việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên đã được Đảng ta thực hiện thường xuyên, bằng nhiều hình thức, biện pháp, từ giáo dục, rèn luyện ở trường lớp, trong tổ chức đảng, ở cơ quan, đơn vị, thông qua phân công thực hiện nhiệm vụ để rèn luyện, thử thách; đồng thời, thông qua công tác kiểm tra, giám sát, khen thưởng và kỷ luật Đảng, đem lại kết quả tích cực. Đại đa số cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng gương mẫu, tự giác, nghiêm chỉnh chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đóng góp xứng đáng vào những thắng lợi, thành tựu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên ở nhiều tổ chức đảng chưa đạt được kết quả như mong muốn. Biểu hiện đáng lo ngại là một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, chỉ lo thu vén cá nhân, ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân; tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực; “chạy” chức, “chạy” quyền, “chạy” chỗ, “chạy” luân chuyển, “chạy” bằng cấp, “chạy” tội; vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức xã hội và truyền thống gia đình...
Có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan của thực trạng trên, trong đó có nguyên nhân quan trọng do trong một thời gian dài các cấp ủy, tổ chức đảng thiếu kiểm tra, giám sát việc giáo dục, rèn luyện đạo đức và việc thực hiện kỷ luật Đảng chưa thật nghiêm minh, dẫn đến các biện pháp đã thực hiện chưa đủ sức răn đe, phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên của Đảng.
Thực tế cho thấy, những năm gần đây, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, đặc biệt từ khi thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, cùng với việc tăng cường công tác kiểm điểm, tự phê bình và phê bình trong các tổ chức đảng, Đảng ta đã đẩy mạnh việc kiểm tra, giám sát, nhất là kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm với nhiều tổ chức đảng và đảng viên, trong đó có nhiều đảng viên là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý bị xử lý kỷ luật nghiêm khắc đã góp phần quan trọng tăng cường kỷ cương, kỷ luật, cảnh báo, ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực, suy thoái về đạo đức, lối sống trong Đảng, làm trong sạch đội ngũ, lấy lại lòng tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội đã có nhiều chủ trương, quy chế, quy định để điều chỉnh, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hành vi, việc thực thi chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ và việc tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Tuy nhiên, việc chấp hành của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nhìn chung vẫn chưa nghiêm, những biểu hiện tiêu cực, suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên chưa giảm, thậm chí có biểu hiện gia tăng cả về số lượng, phạm vi, quy mô và tính chất. Vì vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, cùng với các giải pháp khác, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, công khai kết quả kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng một cách thật nghiêm minh.
Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng chú trọng những nội dung sau:
Tăng cường kiểm tra, giám sát việc cán bộ, đảng viên chấp hành các quy định của Điều lệ Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiểm tra, giám sát đảng viên thực hiện những điều đảng viên không được làm; thực hiện tự soi, tự sửa theo 27 biểu hiện suy thoái, trong đó có 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống; đồng thời kiểm tra, giám sát việc thực hiện khắc phục, sửa chữa sai lầm, hạn chế, khuyết điểm sau tự phê bình và phê bình, đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên hằng năm. Cùng với kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy định của Điều lệ Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các cấp ủy, tổ chức đảng cần thường xuyên kiểm tra, giám sát chuyên đề đối với việc thực hiện những nội dung, quy định nêu trên. Có thể nói, đó là những “mắt lưới” bổ sung, lớp lang rào chắn khá kín ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực, những hành vi vi phạm quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với cán bộ, đảng viên.
Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Đây là những công việc, trách nhiệm chính, thường xuyên của cán bộ, đảng viên trước Đảng, Nhà nước, đoàn thể và nhân dân. Những biểu hiện vi phạm Điều lệ, các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định, điều lệ của đoàn thể của cán bộ, đảng viên chủ yếu thể hiện trong quá trình công tác, trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Cán bộ càng ở những vị trí công tác nhạy cảm, có quyền lực, càng dễ lợi dụng kẽ hở của pháp luật, lợi dụng chức quyền để vụ lợi cá nhân, tham nhũng, tiêu cực, do đó cần đặc biệt tập trung vào đối tượng này.
Kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định về trách nhiệm nêu gương đối với những người đứng đầu. Đó là Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư, về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt các cấp; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, của Bộ Chính trị, về một số việc cần làm ngay để tăng cường trách nhiệm nêu gương; Quy định số 08-QĐ/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Theo đó, cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt các cấp, đặc biệt là cấp cao, không có ngoại lệ phải gương mẫu, đi đầu trong việc chấp hành Điều lệ Đảng, các chủ trương, nghị quyết, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Các cấp ủy, tổ chức đảng cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên, đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thành công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, trước hết là của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên. Đây là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, nghị quyết của cấp ủy và nội dung sinh hoạt thường xuyên của chi bộ, gắn với các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị; gắn với việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Lấy kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một trong những tiêu chuẩn đánh giá, bình xét, phân loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm.
Kiên quyết xử lý kỷ luật những cán bộ, đảng viên vi phạm. Những trường hợp vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước đều phải xử lý nghiêm minh. Mọi cán bộ, đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật Đảng và trước pháp luật, đòi hỏi tính nghiêm minh, chặt chẽ, tính tự giác rất cao. Các tổ chức đảng và đảng viên không phân biệt chức vụ, vị trí công tác, đều phải chấp hành vô điều kiện Điều lệ, Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, ai vi phạm cũng đều phải được xem xét, xử lý đúng mức, không có trường hợp ngoại lệ. Kỷ luật Đảng là kỷ luật sắt, nghĩa là “nghiêm túc và tự giác”. Bản chất của kỷ luật Đảng là sự thống nhất biện chứng giữa nghiêm minh và tự giác. Tôn trọng, nghiêm chỉnh, tự giác chấp hành kỷ luật Đảng cũng là một phẩm chất chính trị và đạo đức hàng đầu của cán bộ, đảng viên.
Các giải pháp thực hiện:
Một là, phát huy dân chủ, đề cao kỷ cương, kỷ luật, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó có nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Thực tế cho thấy, để thực hiện có hiệu quả cao việc xây dựng Đảng về đạo đức, trước hết phải nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về giá trị, vai trò của đạo đức và yêu cầu tính tự giác học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên. Khi tính tự giác của cán bộ, đảng viên trong mọi hoạt động càng cao, thì tính kỷ luật càng tốt và ngược lại, tính kỷ luật, ý thức kỷ luật càng tốt, tính tự giác càng cao. Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản cũng chỉ trở thành hiện thực khi sự giác ngộ và tính tự giác, tính kỷ luật của người cộng sản ở trình độ cao.
Hai là, thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình trong tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên tự giác đối chiếu, tự soi xét các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đối với bản thân mình. Tự phê bình và phê bình không phải là hình thức kỷ luật Đảng, nhưng đây là hoạt động góp phần làm cho kỷ luật Đảng được thực hiện chí lý, chí tình, nghiêm minh trên cơ sở tính tự giác cao của cán bộ, đảng viên. Chính sự thống nhất giữa tính tự giác và tính bắt buộc, tính nghiêm minh quy định phương pháp đấu tranh trong nội bộ Đảng là phương pháp tự phê bình và phê bình, đây được coi là quy luật phát triển của Đảng. Đó là phương pháp góp phần giúp cho Đảng và mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng nhận thức được những ưu điểm, hạn chế, khuyết điểm của bản thân và tổ chức mình, từ đó có biện pháp phát huy ưu điểm, khắc phục, ngăn ngừa, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm. Đây cũng là một biện pháp giáo dục hữu hiệu trong Đảng.
Ba là, thực hiện kiểm tra, giám sát thường xuyên, toàn diện, công khai, dân chủ, nghiêm túc, thận trọng và chặt chẽ. Qua kiểm tra, giám sát để kịp thời nhắc nhở, cảnh báo, chấn chỉnh, ngăn chặn những hành vi vi phạm chủ trương, đường lối, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, sự thiếu gương mẫu của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên; đồng thời, kiên quyết xử lý những tổ chức, cá nhân cố tình vi phạm. Kết hợp kiểm tra, giám sát thường xuyên với kiểm tra dấu hiệu vi phạm, kiểm tra đột xuất, tích cực, chủ động thực hiện giám sát theo chuyên đề. Có biện pháp giáo dục, nhắc nhở, xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với những trường hợp vi phạm, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên, làm trong sạch bộ máy Đảng, thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Bốn là, kết hợp kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng với giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan báo chí và quần chúng nhân dân. Để khắc phục tính hình thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát, Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ phải thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của tổ chức đảng, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Theo đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp cần xây dựng chương trình, kế hoạch một cách chủ động, độc lập, tránh tư tưởng nể nang, né tránh, ngại va chạm, công khai tổ chức hoạt động giám thường xuyên, giám sát theo chuyên đề đối với việc tu dưỡng, học tập, rèn luyện đạo đức và việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ đối với cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
Năm là, kịp thời công khai kết quả kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đây là giải pháp được tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân rất quan tâm, đồng tình ủng hộ và thực tế đã chứng minh có tính hiệu quả cao. Việc công khai các vi phạm, kết quả thẩm tra, xác minh, xem xét thi hành kỷ luật Đảng đối với cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao, cán bộ đã về hưu trong thời gian vừa qua được dư luận rất hoan nghênh. Một mặt, điều đó thể hiện quyết tâm chính trị rất cao của Đảng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đồng thời thể hiện tính dân chủ, công khai trong hoạt động của Đảng. Mặt khác, việc công khai kết quả kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng có tác dụng rất lớn trong việc cảnh báo, cảnh tỉnh, đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong Đảng và bộ máy Nhà nước. Để thực hiện chủ trương này, các cấp ủy Trung ương đến cơ sở kịp thời công khai kết quả kiểm tra, kết luận các phiên họp của ủy ban kiểm tra các cấp trên các phương tiện thông tin đại chúng. Điều này không những góp phần cảnh báo, ngăn ngừa những sai phạm có thể nảy sinh, mà còn đòi hỏi ủy ban kiểm tra các cấp phải thực hiện việc kiểm tra một cách đúng đắn, cẩn trọng, chặt chẽ, chính xác hơn./.
Toàn văn bài phát biểu khai mạc Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIV  (20/05/2019)
Khai mạc trọng thể Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV  (20/05/2019)
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc lên đường thăm Nga, Na Uy và Thụy Điển  (20/05/2019)
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV  (20/05/2019)
Tuần tin cải cách hành chính từ ngày 13 đến ngày 19-5-2019  (20/05/2019)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay