Từ chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến khát vọng xây dựng nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc hiện nay
TCCS - Chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng ta kế thừa, vận dụng xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Trong bối cảnh mới hiện nay, nhiệm vụ tiếp tục quán triệt giá trị chân lý trên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công cuộc đổi mới đất nước, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc.
Giá trị thời đại của chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ thiên tài, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc. Suốt những năm tháng hoạt động cách mạng, Người luôn một lòng phục vụ Tổ quốc và nhân dân, để lại cho đất nước Việt Nam một sự nghiệp cao cả cùng hệ thống di sản tri thức, tinh thần vô giá. Một trong những quan điểm quan trọng, xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh là quan điểm “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, đó là chân lý, kết quả của sự kế thừa và phát triển những giá trị tư tưởng truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, kế thừa và tiếp thu tinh hoa nhân loại; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng nhất của mỗi quốc gia - dân tộc. Mỗi khi nền độc lập, tự do của nước nhà bị xâm phạm thì khối đại đoàn kết toàn dân càng trở nên mạnh mẽ, gắn kết, sẵn sàng đồng lòng một ý chí, kiên quyết đứng lên chiến đấu đến cùng để giữ vững và bảo vệ nền độc lập mà chúng ta có quyền được hưởng. Độc lập, tự do không phải tự nhiên mà có mà phải tự thân vận động “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, nắm lấy quyền tự quyết định vận mệnh của chính bản thân mình. Do đó, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là mệnh đề hành động, là tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc thúc giục toàn dân đứng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” cũng là mệnh đề đấu tranh, đấu tranh cho chân lý, cho vận mệnh Tổ quốc. Mệnh đề đấu tranh này của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc và được Đảng ta kế thừa, từ đó, áp dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, định hướng nhân dân tiến hành cách mạng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Thực tế cách mạng Việt Nam cho thấy, từ khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng và giành được nhiều thắng lợi trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan ách đô hộ của thực dân Pháp và chế độ phong kiến ở nước ta, đưa nhân dân ta vào vị thế người dân của một nước độc lập, tự do, là người làm chủ vận mệnh nước nhà. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, trước quốc dân đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ở thời khắc quan trọng mang tính bước ngoặt của lịch sử dân tộc, Người đã khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”(1). Khẳng định trên của Người là một chân lý thể hiện ý chí kiên cường, bất khuất và khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam,... có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và thời đại sâu sắc.
Thực dân Pháp, với tất cả âm mưu và thủ đoạn, đã quyết tâm cướp nước ta thêm một lần nữa. Dân tộc Việt Nam, với tinh thần yêu nước, đoàn kết một lòng chống giặc ngoại xâm được đặt dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã làm nên một Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Chiến thắng Điện Biên Phủ nói riêng và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nói chung đã tạo cơ sở để tiếp tục sự nghiệp bảo vệ và phát triển thành quả của Cách mạng Tháng Tám, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Bắc, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp trong vòng gần một thế kỷ; đồng thời, đó là đòn giáng mạnh mẽ vào hệ thống thực dân, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới. Tuy nhiên, nhân dân ta vẫn chưa thể dành toàn tâm, toàn trí thực hiện công cuộc xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, bởi lẽ đế quốc Mỹ đã dựng nên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam hòng phá vỡ Hiệp định Giơ-ne-vơ, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định lại, rõ hơn rằng: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(2). Tính đúng đắn trong các luận điểm này của Người đã được thể hiện rõ trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Giá trị của độc lập, tự do được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong Lời kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, ngày 17-7-1966, Người nhấn mạnh: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(3). Đó là lời hịch kêu gọi toàn dân tộc Việt Nam chung một tấm lòng, sẵn sàng cùng nhau vượt qua khó khăn, thách thức; là một cuộc vận động lớn để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, củng cố niềm tin, siết chặt đội ngũ để đi vào giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trường kỳ, không chỉ của dân tộc Việt Nam, mà của cả nhân loại tiến bộ trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”(4). Ngày 30-4-1975, chúng ta đã hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước, thu giang sơn về một mối, biến khát vọng về độc lập, tự do, hòa bình của cả dân tộc trở thành hiện thực.
Thực tiễn đã chứng minh, trong hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” chính là lẽ sống, khát vọng và là sức mạnh của dân tộc Việt Nam.
Trong suốt quá trình sáng lập, xây dựng, lãnh đạo Đảng và cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định và giữ vững lập trường “độc lập, tự do” của dân tộc và quyền được hưởng cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân là giá trị thiêng liêng - tư tưởng sáng suốt này góp phần kiến tạo động lực, sức mạnh để làm nên chiến thắng của nhân dân Việt Nam trong suốt quá trình đấu tranh cho độc lập, vì sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Bởi lẽ, có độc lập, tự do thì sẽ có tất cả. Đất nước không thể phồn vinh, dân tộc không thể phát triển, nhân dân không thể có cơm ăn, áo mặc và cuộc sống hạnh phúc nếu không có độc lập, tự do. Nhiệm vụ của Đảng là lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng giành lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc. Vì vậy, làm sao để Đảng ngày càng vững mạnh, có đủ bản lĩnh, sức chiến đấu và tài lãnh đạo đất nước trong thời chiến cũng như khi đất nước độc lập là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân trong mọi thời kỳ.
Trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa cách mạng hai miền (tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, giải phóng miền Nam thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai); phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(5). Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để chăm lo tốt cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, trước hết phải xây dựng nhà nước thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính phủ phải là công bộc của dân. Do đó, giành được độc lập rồi, phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, vì “chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”(6) và “mọi người được ăn no mặc ấm, sung sướng, tự do”(7). Sự phát triển đất nước theo con đường của chủ nghĩa xã hội sẽ bảo đảm vững chắc nhất cho nền độc lập của dân tộc. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, xây dựng và phát triển đất nước sau kết thúc chiến tranh luôn là một nhiệm vụ to lớn, nặng nề và phức tạp mà cũng rất vẻ vang. Đó là một cuộc “chiến đấu” đầy khó khăn để chống những gì đã cũ kỹ, hư hỏng; để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Ðể giành lấy thắng lợi trong cuộc “chiến đấu” ấy, Đảng và Chính phủ không chỉ cần tiến hành “khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế”; “phát triển công tác vệ sinh, y tế”; “sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân”; “củng cố quốc phòng”..., mà còn phải động viên toàn dân, tổ chức, giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân và tạo điều kiện cho nhân dân tự xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc của mình(8).
Chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là lẽ sống, lý tưởng để hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc
Chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là sự tiếp nối truyền thống yêu nước của dân tộc, trở thành giá trị nền tảng xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh và được thể hiện sâu sắc không chỉ trong cuộc đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, mà còn trong quá trình xây dựng xã hội mới. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn phong phú của tiến trình cách mạng, Đảng ta xác định một trong năm bài học lớn là: Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Khắc ghi lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta luôn vận dụng khôn khéo và nhất quán chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do” trước các vấn đề chính trị - xã hội, kinh tế và ngoại giao. Khi đất nước đã có độc lập, tự do thì điều quan trọng là phải làm cho giá trị của độc lập, tự do trở nên có ý nghĩa hơn. Đó chính là ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, giá trị thời đại sâu sắc và lâu dài của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhìn lại gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, kinh tế - xã hội phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Kinh tế vĩ mô ổn định, tốc độ tăng trưởng khá cao (giai đoạn 2016 - 2020 tăng trưởng bình quân khoảng 6,0%/năm), thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất trong khu vực và thế giới; chất lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô và tiềm lực nền kinh tế được nâng lên. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với quy luật khách quan(9). Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2022 ước đạt 9,513 triệu tỷ đồng, tương đương 409 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2022 theo giá hiện hành ước đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD(10). Tổng sản phẩm quốc nội xét trên phương diện quan hệ sở hữu, gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài(11).
Có thể khẳng định, Đảng ta, đất nước ta luôn vững vàng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện và đáng mừng trên nhiều lĩnh vực, tuyệt nhiên không được chủ quan, tự mãn, quá say sưa với những kết quả, thành tích đã đạt được và cũng không quá bi quan, dao động trước những khó khăn, thách thức; mà trái lại, cần phải hết sức bình tĩnh, sáng suốt, phát huy thật tốt những kết quả, bài học kinh nghiệm đã có, khắc phục những hạn chế, yếu kém còn tồn tại, nhất là từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII đến nay, để tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, nỗ lực phấn đấu, tranh thủ mọi thời cơ, thuận lợi; vượt qua mọi khó khăn, thách thức(12).
Từ thực tiễn khách quan của công cuộc đổi mới đất nước gần 40 năm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có đánh giá sâu sắc: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(13); đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng và chứa đựng niềm tin son sắt để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước. Những thành tựu của công cuộc đổi mới kể trên là kết quả của quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để đổi mới và hội nhập quốc tế, Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra chủ trương, quan điểm chỉ đạo về tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước, trong đó nêu rõ bốn kiên định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(14). Như vậy, Đảng ta đã khẳng định, bài học độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự phản ánh sinh động xu thế cách mạng của thời đại cũng như của nước ta, không chỉ là nguyên nhân khởi nguồn những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trước đây, mà còn chỉ ra những yếu tố bảo đảm tính đúng đắn của đường lối và sự thắng lợi của cách mạng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Từ khát vọng hòa bình cùng ý chí và tinh thần đấu tranh anh dũng, kiên cường bảo vệ thành công nền độc lập, tự do của đất nước, từ tinh thần lao động, sáng tạo không ngừng, làm nên những thành tựu vĩ đại trong công cuộc đổi mới vừa qua của dân tộc đã tạo nền tảng, tiền đề vững chắc cho Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu: “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(15). Đại hội XIII của Đảng không chỉ đặt ra mục tiêu cho nhiệm kỳ 2021 - 2025, mà còn xác định tầm nhìn đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ mục tiêu tổng quát đó, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu cụ thể, đến năm 2025 là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao(16).
Tình hình thế giới sẽ tiếp tục còn nhiều thay đổi, diễn biến phức tạp, khó lường, ảnh hưởng tới sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhưng chắc chắn giá trị chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” luôn bất biến; như một mệnh lệnh đến từ trái tim, kết nối muôn trái tim người dân đất Việt đoàn kết cùng nhau, chung sức, vượt qua muôn vàn gian khó để bảo vệ nền độc lập, chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Để hiện thực hóa khát vọng xây dựng nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc hiện nay cần: Trước tiên, luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đây là hai nhiệm vụ chiến lược cần bảo đảm. Trước sau như một, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn phát huy tinh thần đoàn kết, đồng lòng, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng.
Thứ hai, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng - an ninh. Không ngừng nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng. Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết trong toàn Đảng, toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Chăm lo đời sống nhân dân, để nhân dân được thực hiện nghĩa vụ và hưởng thụ quyền lợi trong một xã hội tiến bộ và công bằng, với hành lang pháp lý đầy đủ và ngày càng hoàn thiện, để nhân dân thực sự là người chủ trong xã hội mới và ngày càng được thụ hưởng đầy đủ về vật chất và tinh thần. Thứ ba, thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo nhằm tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, không có nghĩa là khép kín, không giao lưu với nước ngoài, nhất là trong tiến trình Việt Nam đẩy mạnh toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới. Mở rộng hợp tác để phát triển, đồng thời vẫn “kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”(17). Tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, vì mục tiêu chung là phải thực sự làm cho nhân được hạnh phúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra biện pháp cơ bản để toàn Đảng đoàn kết, nhất trí là: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”(18). Tăng cường đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa(19).
Chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” chính là tư tưởng, lẽ sống, là lý tưởng phấn đấu của cả dân tộc Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi đó là một chân lý, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và giá trị thời đại sâu sắc. Đó cũng là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh vĩ đại vì độc lập, tự do, vì sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Đồng thời, tư tưởng đó cũng là nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với nhân loại tiến bộ, đặc biệt là đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, tự do, hạnh phúc.
Giá trị của chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ thể hiện trong cuộc đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, mà còn thể hiện rất sâu sắc trong quá trình xây dựng xã hội mới hiện nay. Đảng, Nhà nước luôn ứng xử khôn khéo và nhất quán chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trước các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia - lãnh thổ. Khi đất nước đã có độc lập, tự do thì điều quan trọng là phải làm cho giá trị của độc lập, tự do trở nên có ý nghĩa hơn, mỗi người dân phải có cơm ăn, áo mặc, học hành, việc làm, quyền làm chủ, quyền con người, góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước ngày một hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc,... Đó chính là ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, giá trị thời đại sâu sắc và lâu dài của tư tưởng Hồ Chí Minh./.
---------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 3
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 563
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 131
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 621
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 64
(6), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 390, 593
(8) Xem: Nguyễn Văn Dương: “Chăm lo đời sống nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 1-10-2020, https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/819653/cham-lo-doi-song-nhan-dan-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-trong-giai-doan-hien-nay.aspx
(9) Xem: Lê Hữu Nghĩa: “Cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín, sức mạnh tổng hợp của quốc gia - dân tộc sau gần 35 năm đổi mới”, Tạp chí Cộng sản điện tử, “https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/gop-y-du-thao-cac-van-kien-trinh-dai-hoi-xiii-cua-dang/-/2018/820121/co-do%2C-tiem-luc%2C-vi-the%2C-uy-tin%2C-suc-manh-tong-hop-cua-quoc-gia---dan-toc-sau-gan-35-nam-doi-moi.aspx
(10) Tổng cục Thống kê: “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2022”, Trang thông tin điện tử Tổng cục Thống kê, https://www.gso.gov.vn/bai-top/2022/12/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2022/
(11) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 23
(12) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Phát huy những kết quả và bài học kinh nghiệm đã có; tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới, tranh thủ mọi thời cơ, thuận lợi; vượt qua mọi khó khăn, thách thức; quyết tâm thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 15-6-2023, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chi-tiet-tim-kiem/-/2018/827661/phat-huy-nhung-ket-qua-va-bai-hoc-kinh-nghiem-%C4%91a-co%3B-tiep-tuc-%C4%91ay-manh-hon-nua-cong-cuoc-%C4%91oi-moi%2C-tranh-thu-moi-thoi-co%2C-thuan-loi%3B--vuot-qua-moi-kho-khan%2C-thach-thuc%3B-quyet-tam-thuc-hien-thang-loi-toan-dien-nghi-quyet-%C4%91ai-hoi-xiii-cua-%C4%91ang.aspx
(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 322
(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 109
(15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 14
(16) Xem: Tạ Ngọc Tấn: “Những nhận thức mới về định hướng phát triển trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 16-5-2021, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/thong-tin-ly-luan/-/2018/821908/nhung-nhan-thuc-moi-ve-dinh-huong-phat-trien-trong-van-kien-dai-hoi-xiii-cua-dang.aspx
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 145 - 146
(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 611
(19) Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, “Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”
Vai trò của giảng viên lý luận chính trị ở các trường đại học trong việc phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái về Chủ tịch Hồ Chí Minh  (16/02/2024)
- Hội nghị Trung ương 3 khóa XX Đảng Cộng sản Trung Quốc: Chú trọng duy trì ổn định và phát triển chất lượng cao
- Tư duy lý luận của Đảng về xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ năm 1991 đến nay
- Nâng cao hiệu quả công tác nắm bắt, định hướng dư luận xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong bối cảnh mới
- Tỉnh Yên Bái nâng cao chỉ số hạnh phúc cho người dân: Từ nghị quyết đến thực tiễn
- Nhận diện một số tiêu chí cơ bản của xã hội văn minh ở Việt Nam qua gần 40 năm đổi mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm