Cửa khẩu Lao Bảo - Quảng Trị
Ảnh: TL

Những năm vừa qua, mặc dù gặp nhiều điều kiện không thuận lợi, nhưng Quảng Trị đã đạt được những thành tựu quan trọng, kinh tế có tốc độ tăng trưởng khá cao, đời sống nhân dân được cải thiện. Tuy vậy, hiện nay đang có nhiều vấn đề đặt ra, như chưa khai thác tốt các lợi thế, tiềm năng và tăng trưởng chưa thực sự bền vững...

1 - Thành tựu và những vấn đề đặt ra

Giai đoạn 2001 - 2005, kinh tế của tỉnh có mức tăng trưởng khá cao, tốc độ tăng bình quân đạt 8,7%. Năm 2006 tốc độ tăng trưởng đạt 11,54%, năm 2007 đạt 11,2% cao hơn mức bình quân của 5 năm trước. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh từ 15,08% (năm 2000) lên 30,9% (năm 2007); ngành nông - lâm - ngư nghiệp từ 44,9% (năm 2000) giảm xuống còn 32,1% (năm 2007). Ngành dịch vụ năm 2007 đạt 37%.

Với vị trí địa lý thuận lợi (nằm trên trục hành lang kinh tế Đông - Tây), có đường quốc lộ 1 và đường sắt, đường Trường Sơn chạy qua, có rừng, biển..., Quảng Trị có những lợi thế nhất định để đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hóa với quy mô lớn; phát triển sản xuất công nghiệp; khai thác tiềm năng du lịch biển, hải đảo và hệ thống các di tích lịch sử nổi tiếng như: Hiền Lương - Bến Hải, di tích Thành Cổ, địa đạo Vĩnh Mốc, hàng rào điện từ Mắc-na-ma-ra, sân bay Tà Cơn... cùng nhiều danh lam thắng cảnh tự nhiên (rừng, biển)... Phát triển du lịch liên vùng và quốc tế sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế nhanh, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động cũng như góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo.

Từ năm 2000 - 2001, giá trị xuất khẩu bình quân hằng năm đạt 15,44 triệu USD, giá trị nhập khẩu đạt 17,56 triệu USD. Hàng nông sản, thủy sản chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu giá trị xuất khẩu của địa phương. Năm 2007, xuất khẩu đạt 31 triệu, nhập khẩu đạt 39,2 triệu, vượt kế hoạch đề ra 10,7%.

Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế của Quảng Trị cao hơn mức trung bình của cả nước nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Điều đó khẳng định chất lượng tăng trưởng chưa đạt tới sự ổn định và bền vững.

Nông nghiệp vẫn là ngành chính. Trong nông nghiệp, trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng cao. Sản xuất hàng hóa chưa phát triển, đặc biệt ở các xã phía tây của tỉnh và một số xã thuộc vùng cát ven biển. Chăn nuôi, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh.

Sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu. Thị trường tiêu thụ sản phẩm không ổn định. Sản phẩm xuất khẩu hay bán ra tỉnh ngoài chủ yếu dưới dạng thô hoặc sơ chế (cao su, hồ tiêu, cà phê, ớt...).

Quy mô phát triển công nghiệp của tỉnh còn nhỏ bé, tốc độ phát triển chậm. Đầu tư cho công nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, hạ tầng kỹ thuật, thiết bị công nghệ còn lạc hậu, thiếu đội ngũ quản lý giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề, thiếu vốn. Công nghiệp hóa nông thôn phát triển chậm.

Hoạt động du lịch còn ở dạng sơ khai, mặc dù có rất nhiều lợi thế. Tỷ trọng du lịch trong cơ cấu kinh tế thấp, thiếu ổn định.

Kết cấu hạ tầng yếu kém, năng lực tổ chức, quản lý, khai thác cùng với khả năng đầu tư hạn chế nên hiệu quả khai thác du lịch còn thấp.

Chất lượng lao động thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đào tạo nghề chưa đáp ứng được yêu cầu của thời đại mới. Số lượng người lao động không có việc làm còn lớn, trình độ dân trí và chất lượng nguồn lao động còn thấp. Một bộ phận không nhỏ cán bộ còn yếu kém về trình độ và năng lực chuyên môn, năng lực điều hành, khu vực miền núi thiếu cán bộ có trình độ một cách trầm trọng.

Kết cấu hạ tầng vùng nghèo, xã nghèo vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ. Chất lượng xóa đói, giảm nghèo chưa vững chắc, tình trạng tái nghèo dễ xảy ra, diện đói nghèo dễ tăng cao khi gặp rủi ro trong sản xuất kinh doanh hoặc chịu ảnh hưởng của thiên tai, bão lụt, hạn hán.

Tội phạm và một số tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng phức tạp, tai nạn giao thông chưa giảm, nhất là ở các khu dọc tuyến quốc lộ 1 chạy qua tỉnh.

Môi trường chưa được quan tâm đúng mức. Công tác tuyên truyền, phổ biến bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ, rừng ven biển, khai thác và bảo vệ khoáng sản chưa được sâu sát, thiếu chế tài xử phạt, thiếu sự phối hợp giữa trung ương và địa phương, giữa các ban, ngành.

Tài nguyên rừng, tài nguyên biển ven bờ bị khai thác cạn kiệt, môi trường sinh thái đang diễn biến theo xu thế xấu.

Ngoài ra, hậu quả chiến tranh để lại còn nặng nề, nhất là số nạn nhân bị ảnh hưởng chất độc màu da cam; các loại vật liệu nổ trong chiến tranh vẫn tiếp tục gây thiệt hại cho cả người và tài sản...

2 - Những định hướng phát triển theo hướng bền vững ở Quảng Trị

Một là, tăng trưởng và phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Phát triển công nghiệp - xây dựng là nhiệm vụ trung tâm, ưu tiên số một của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm tạo động lực quan trọng và cơ bản cho chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế của tỉnh. Phấn đấu tăng giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng đạt trung bình 25%/năm.

Xây dựng ngành thương mại - du lịch - dịch vụ thành một ngành quan trọng, kinh tế mũi nhọn của tỉnh, tạo bước đột phá cho thời kỳ sau năm 2010. Tốc độ tăng trưởng thương mại - du lịch - dịch vụ bình quân đạt 8,4%/năm. Phát triển đa dạng và nâng cao hiệu quả các loại hình dịch vụ, đẩy nhanh việc xây dựng và tổ chức triển khai chiến lược phát triển thương mại - dịch vụ đường 9 qua hành lang kinh tế Đông - Tây.

Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa là cơ sở, nền tảng của nền kinh tế. Tập trung chỉ đạo đầu tư phát triển toàn diện, đồng bộ cả 3 vùng, trong đó đặc biệt chú trọng đầu tư khai thác theo chiều sâu, đa dạng hóa cây con, chuyên canh, thâm canh, nhằm không ngừng nâng cao giá trị và hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích, coi đó là thước đo phát triển kinh tế trong nông - lâm - ngư nghiệp. Phấn đấu tốc độ tăng trưởng nông - lâm - ngư nghiệp bình quân đạt 4%/năm.

Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản mà tỉnh có lợi thế (cao-su, hồ tiêu, thủy sản,...). Coi trọng việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm và mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trường nước ngoài.

Phát triển các tiểu vùng, các trục kinh tế, các trung tâm dân cư theo hướng đô thị hóa. Phát triển đặc khu kinh tế Lao Bảo ở cửa khẩu với Lào; trục kinh tế đường 9, các thị trấn Bến Quan (Vĩnh Linh), thị tứ Tà Rụt, Pa Tầng (Hướng Hóa), cầu Đak-rông, Ba Lòng (Đak-rông), Tân Lâm, Mỏ Đá (Cam Lộ), Mỹ Thủy (Hải Lăng), Ngã ba Sa Lung, Tiên Anh, Tiên Mỹ...

Thực hiện tuyên truyền và phổ biến rộng rãi để toàn dân nhận thức sâu sắc quan điểm của Đảng và Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO, những cơ hội và thách thức của Việt Nam nói chung và Quảng Trị nói riêng trong việc phát triển bền vững.

Hai là, xây dựng môi trường, lối sống văn hóa, chú trọng công tác giáo dục và y tế.

Để thực hiện tốt các mục tiêu này, điều quan trọng là phải:

- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn lao động chất lượng cao trong công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp. Song song với đó, phải đa dạng hóa các loại hình đào tạo, đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, kết hợp với việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo. Hoàn thành việc chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và các cán bộ quản lý các cấp.

- Đẩy mạnh sự nghiệp y tế, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân, nâng cao chất lượng dân số. Tập trung nâng cao công tác khám, chữa bệnh. Tăng cường công tác dự phòng, không chế dịch bệnh có hiệu quả.

- Tranh thủ các nguồn vốn từ trung ương, các tổ chức quốc tế và các doanh nghiệp, huy động mọi nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất cho trường học. Chú trọng phát triển giáo dục cho đồng bào các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng ven biển.

- Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, tiếp tục thực hiện các chính sách xã hội, phát động phong trào toàn dân chăm sóc, giúp đỡ gia đình và thân nhân các liệt sỹ, thương binh, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, những người có công với nước. Có những chính sách và biện pháp cụ thể để thực hiện công bằng xã hội, đặc biệt là xóa đói, giảm nghèo.

- Giải quyết việc làm theo hướng phát huy nội lực là chủ yếu, tạo cơ chế, chính sách cho các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh, các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài nhằm thu hút đầu tư, giải quyết việc làm cho người dân. Đồng thời, coi trọng xuất khẩu lao động là một hướng quan trọng. Từ đó, phấn đấu giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thị xã, thị trấn đến năm 2010 xuống còn dưới 4%, nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 85%.

- Thực hiện chính sách khuyến khích các huyện, xã, các hộ gia đình vươn lên làm giàu, thoát nghèo. Tăng cường những biện pháp, hình thức cụ thể để nâng cao chất lượng hoạt động đỡ đầu, kết nghĩa, giúp xóa đói, giảm nghèo hiệu quả.

Ba là, phát triển kinh tế - xã hội phải gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.

Về mục tiêu này ủy ban nhân dân tỉnh đã có chương trình rà soát các vùng cấm khai thác, tạm cấm khai thác và những điểm khai thác phải bảo đảm theo quy hoạch, không gây ảnh hưởng đến khu dân cư, đến các ngành khác và môi trường.

Thu nhập bình quân đầu người của Quảng Trị năm 2001 là 224.000 đồng/tháng, thấp hơn các vùng khác trong nước (trừ vùng Tây Bắc 212.000 đồng) và chỉ bằng 54,25% mức bình quân chung của cả nước. Đến năm 2004, thu nhập bình quân tăng lên 306,2 nghìn đồng/tháng, bằng 63% thu nhập bình quân chung cả nước. Năm 2007 đạt 7,6 triệu, tương đương 474 USD xấp xỉ 56,7% mức bình quân của cả nước.

Việc bảo vệ môi trường gắn với phát triển bền vững ở Quảng Trị phải đi liền với những biện pháp cụ thể, như lựa chọn các ngành có lợi thế so sánh, có khả năng thu hút lao động, từng bước chuyển hướng xuất khẩu các sản phẩm sơ cấp (thủy, hải sản, cao su, cà phê, ớt, hạt tiêu,...) sang xuất khẩu các sản phẩm có chất lượng chế biến sâu (cà phê, cao su, hải sản chế biến,...). Tỉnh đã từng bước thực hiện tốt định hướng này, quyết tâm chuyển các nhà máy gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ra khỏi thị xã, khu dân cư. Đầu tư đổi mới công nghệ, trước hết là các ngành công nghiệp cao su, đồ gỗ, cà phê, chế biến nông, lâm sản, xi-măng,... nhằm nâng cao sức cạnh tranh, giảm ô nhiễm môi trường. Chú trọng sản xuất sạch trong sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Đến nay, tỉnh đã trình Chính phủ các khu công nghiệp: Nam Đông Hà, Bắc Cửa Việt và Đường 9, với diện tích các khu công nghiệp khoảng 500 ha, đây là cơ sở hết sức quan trọng để vừa phát triển công nghiệp, vừa bảo đảm gìn giữ môi trường. Tỉnh đang tiếp tục xây dựng một số mô hình phát triển nông nghiệp trên nền đất cát ven biển: làng sinh thái sản xuất lạc, nuôi trồng thủy sản hoặc sản xuất lâm nghiệp gắn với bảo vệ rừng tại các huyện miền núi của tỉnh, nhằm gắn lợi ích kinh tế với trách nhiệm bảo vệ môi trường sinh thái./.