Đổi mới phương pháp học tập và quán triệt nghị quyết, gắn các mục tiêu Nghị quyết Đại hội X của Đảng với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của từng địa phương là cách làm có sức thuyết phục, tạo sự hấp dẫn cho người học. Đó là kinh nghiệm và bài học lớn của Đảng bộ Kiên Giang.

Kiên Giang nằm ở phía Tây Nam của Tổ quốc, là tỉnh có đồng bằng - rừng nguyên sinh - đồi núi và cả biển đảo. Nhờ có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên đặc biệt, đã tạo cho Kiên Giang nhiều tiềm năng và lợi thế kinh tế phong phú, đa dạng: kinh tế nông - lâm nghiệp; kinh tế biển; công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng; công nghiệp chế biến nông - thủy sản và dịch vụ du lịch; nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử, văn hóa tiêu biểu.

Ngoài ra, với vị thế là cửa ngõ ở phía Tây Nam thông ra Vịnh Thái Lan, Kiên Giang còn có tiềm năng lớn về kinh tế cửa khẩu, hàng hải và mậu dịch quốc tế. Nhân dân Kiên Giang có truyền thống cách mạng kiên cường, với nhiều thành tích to lớn góp phần cùng cả nước đấu tranh chiến thắng kẻ thù xâm lược, giành độc lập, tự do cho dân tộc và thống nhất đất nước; đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Thực hiện Chỉ thị số 01 ngày 25-5-2006 của Bộ Chính trị và Hướng dẫn của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương về việc tổ chức nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Tỉnh ủy Kiên Giang đã chỉ đạo các cấp ủy tổ chức nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền, tổ chức thực hiện Nghị quyết sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân theo phương châm đổi mới, thiết thực; tập trung vào những nội dung cơ bản, đặc biệt là những vấn đề mới, cốt lõi của Nghị quyết. Trên cơ sở đó, Tỉnh ủy triển khai tổ chức các lớp học thành 3 nhóm: Nhóm thứ nhất cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Nhóm thứ hai cho cán bộ chủ chốt cấp huyện, thị và tương đương. Nhóm thứ ba gồm đảng viên ở cơ sở.

Cùng với việc tổ chức nghiên cứu, quán triệt cho cán bộ, đảng viên trong các tổ chức đảng, Tỉnh ủy cũng đặc biệt chú trọng đẩy mạnh tuyên truyền nghị quyết cho các tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Ban Dân vận Tỉnh ủy xây dựng kế hoạch tuyên truyền, phổ biến và soạn thảo tài liệu dưới dạng hỏi - đáp, đăng trong bản tin tự quản. Các phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh và một số tạp chí, bản tin, tập trung tuyên truyền về những nội dung cơ bản và những vấn đề mới của Nghị quyết. Kết quả có hơn 98% đảng viên toàn tỉnh tham gia học tập Nghị quyết Đại hội X.

Chương trình hành động của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Đại hội X và Nghị quyết Đại hội VIII Đảng bộ tỉnh được xác định đến năm 2010: Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, phấn đấu hằng năm GDP đạt từ 13% trở lên; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ; GDP bình quân đầu người đạt từ 1.000 - 1.100 USD. Đi đôi với tăng trưởng kinh tế, tập trung giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 6%. Củng cố quốc phòng - an ninh, chú trọng an ninh chính trị, biên giới, vùng biển, bảo đảm chủ quyền quốc gia. Tập trung củng cố và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Để thực hiện các mục tiêu cơ bản nêu trên, Kiên Giang đã đề ra những nhiệm vụ rất cụ thể có tính đột phá, nhằm thúc đẩy phát triển vùng và địa bàn trọng điểm, phát huy tốt hơn tiềm năng, thế mạnh ở từng vùng, địa bàn; bảo đảm đưa nghị quyết nhanh chóng đi vào và phát huy tác dụng tích cực trong cuộc sống.

Định hướng phát triển đối với các địa bàn trọng điểm

- Vùng Tứ giác Long Xuyên và ven biển Hòn Đất - Kiên Lương - Hà Tiên: Tập trung ổn định dân cư, khai thác đạt 100% quỹ đất còn hoang hóa, đẩy mạnh nuôi trồng thủy hải sản. Đầu tư phát triển du lịch sinh thái biển, cảnh quan và văn hóa lịch sử di tích. Phát triển kinh tế cửa khẩu, nâng cấp cửa khẩu Xà Xía thành cửa khẩu quốc tế Hà Tiên. Hoàn thành việc xây dựng kết cấu hạ tầng; xây dựng phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn gắn chặt với an ninh - quốc phòng, an ninh biên giới biển đảo và đất liền; làm tốt công tác đối ngoại với Cam-pu-chia. Chuẩn bị tốt mọi điều kiện để thành lập huyện mới; đồng thời phấn đấu đưa thị xã Hà Tiên trở thành trung tâm văn hóa - du lịch của cả vùng vào những năm 2010 trở đi.

- Thành phố Rạch Giá và vùng phụ cận: Tập trung phát triển hoàn thành hạ tầng các khu công nghiệp tập trung, mở rộng khu công nghiệp và cảng Tắc Cậu, phát triển công nghiệp cơ khí sửa chữa, hậu cần nghề cá. Đẩy mạnh đầu tư công nghiệp chế biến thủy hải sản... Phấn đấu làm nổi bật vị trí, vai trò trung tâm đô thị của thành phố Rạch Giá với quá trình phát triển của toàn vùng.

- Vùng Tây Sông Hậu: Hình thành vùng lúa chất lượng cao, đẩy mạnh chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản nước ngọt, gắn vùng nguyên liệu với sản xuất công nghiệp chế biến,... Hoàn thành hạ tầng khu công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp vừa và nhỏ, chủ yếu phát triển công nghiệp chế biến nông sản, cơ khí phục vụ sản xuất nông nghiệp và nghề truyền thống,... gắn kết hoạt động kinh tế với Hậu Giang và Cần Thơ. Gắn sản xuất với chế biến, thu hút doanh nghiệp vừa và nhỏ về nông thôn, thúc đẩy liên kết 3 nhà. Phát triển một phần nông nghiệp đô thị ở Tân Hiệp.

- Vùng Bán đảo Cà Mau: Tiếp tục đầu tư thủy lợi theo hướng đa mục tiêu, trong đó chú trọng vùng ven biển. Đầu tư phát triển trung tâm kinh tế, văn hóa kinh làng thứ bảy; hoàn thành và phát huy tác dụng du lịch sinh thái và du lịch nghiên cứu khoa học (du khảo) U Minh Thượng, gắn với bảo vệ môi trường, phòng chống cháy rừng quốc gia. Đẩy mạnh đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật,... Phấn đấu đến năm 2010 đưa các huyện trong vùng phát triển thoát nghèo, vươn lên ngang bằng mức phát triển chung của tỉnh.

- Vùng biển đảo Kiên Hải - Phú Quốc: Phát triển kinh tế biển đảo theo hướng tổng hợp, trọng tâm là du lịch với nhiều loại hình, sản phẩm du lịch độc đáo, đặc thù nhằm khai thác lợi thế vùng biển, trong đó lấy địa bàn Phú Quốc làm trung tâm; đi đôi với hoàn thành cơ chế quản lý đầu tư hợp lý, thu hút mạnh đầu tư vào Phú Quốc. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với an ninh biên giới, biển đảo, bảo vệ môi trường sinh thái.

Những giải pháp cơ bản nhằm phát triển kinh tế - xã hội

- Tiếp tục rà soát bổ sung hoàn thành quy hoạch tổng thể, quy hoạch chuyên ngành, quy hoạch vùng đến năm 2010 - 2015 và định hướng đến năm 2020 tập trung phát triển các dự án trọng điểm, nâng cao chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực. Bố trí nguồn vốn cần thiết và thu hút các chuyên gia giỏi dưới nhiều hình thức để nâng cao chất lượng công tác quy hoạch. Quá trình điều chỉnh bổ sung quy hoạch chung phải gắn kết với việc quy hoạch không gian đô thị và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng trên từng địa bàn. Rà soát bổ sung quy hoạch chi tiết (tỷ lệ 1/2000) ở các huyện, thị, thành.

Tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Trên cơ sở làm tốt quy hoạch để xác định bước đi thích hợp, đầu tư tập trung ưu tiên cho các công trình trọng điểm có tính chất tạo đà và làm đòn bẩy cho phát triển kinh tế, các chương trình thiết yếu về xã hội. Hướng chung là phân cấp mạnh mẽ về đầu tư, nhưng chống dàn trải, kém hiệu quả, đồng thời khắc phục sự ỷ lại trông chờ vào các nguồn đầu tư của cấp trên. Rà soát lại để bổ sung hoàn thiện các cơ chế, chính sách đối với việc thu hút đầu tư phát triển các khu, cụm công nghiệp để các dự án được xây dựng theo đúng tiến độ, nhất là các dự án quan trọng. Một số công trình dự án trọng điểm cần đầu tư ưu tiên trước một bước trong nhiệm kỳ 2005 - 2010, bao gồm nhóm công trình hạ tầng trục giao thông chính, điện, nước, cảng, sân bay... các khu công nghiệp tập trung, các công trình dẫn và xử lý nước...

Phát triển nguồn nhân lực toàn diện cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu, phân bổ nhân lực hợp lý nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và thị trường lao động của cả khu vực. Trước mắt, tập trung nâng cao chất lượng và quy mô giáo dục - đào tạo nhằm đưa mức phát triển bằng với cả nước vào năm 2010. Có 4 chương trình trọng điểm mang tính giải pháp cần tập trung là: đào tạo mới 50 thạc sỹ - tiến sỹ và cán bộ đầu đàn cho các chuyên ngành và doanh nghiệp; tuyển chọn và đào tạo 200 cán bộ trẻ tạo nguồn nhân lực chất lượng cao dự nguồn bổ sung cho cán bộ lãnh đạo, quản lý và chuyên môn hoá sâu, lâu dài cho tỉnh; đào tạo nghề cho 20% lao động trong độ tuổi; đào tạo 90% cán bộ cơ sở có trình độ chuyên môn theo chức danh quy định và 100% cán bộ chủ tịch, bí thư xã, phường, thị trấn dưới 40 tuổi có trình độ đại học và tương đương.

- Đẩy mạnh cải cách hành chính, quan tâm tháo gỡ những vướng mắc, rào cản từ các thủ tục hành chính và yếu kém của bộ máy quản lý nhằm tạo ra môi trường thông thoáng, khuyến khích và thu hút các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội phát sinh trong quá trình phát triển, nhất là các tệ nạn xã hội. Thông qua các dự án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội để giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 6% vào năm 2010.

- Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy và việc tổ chức thực hiện nghị quyết. Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của chính quyền, cụ thể hóa việc thực hiện nghị quyết của Đảng bằng cách phân công ủy viên ban thường vụ, cấp ủy theo dõi phụ trách từng lĩnh vực ở từng địa phương. Tăng cường chỉ đạo cơ sở, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện, giúp cơ sở tháo gỡ khó khăn; ban hành quy định về chế độ đi cơ sở của cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, xem đây là cơ sở quan trọng nhất để thực hiện việc đánh giá, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ.

- Ban Thường vụ Tỉnh ủy thành lập Tổ công tác nghiên cứu tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ đạo các ban, ngành của tỉnh, các huyện và các xã, phường xác định những danh mục công tác chủ yếu triển khai thực hiện ngay, đề xuất những nội dung quan trọng về kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị, đồng thời tham mưu tổng kết kịp thời, để rút ra kinh nghiệm cần thiết phục vụ việc triển khai thực hiện nghị quyết đại hội. Yêu cầu chung của việc đổi mới cách tổ chức thực hiện nghị quyết đại hội là trên cơ sở quán triệt nội dung của nghị quyết nhiệm kỳ, mỗi cấp, mỗi ngành cơ sở cần chọn lọc, xác định rõ danh mục những công việc quan trọng, những đề án, chương trình mang tính chi phối đối với ngành, địa phương trong 5 năm tới, định danh rõ địa phương, tổ chức đảm trách công việc, thời gian thực hiện và hoàn thành,... với tinh thần chỉ đạo quyết liệt, nhằm tạo sự chuyển biến về chất trong lãnh đạo, chỉ đạo.

Quán triệt tinh thần trên, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã thông qua 26 chương trình, 11 dự án trọng điểm, 20 chuyên đề công tác trọng tâm cần tập trung chỉ đạo thực hiện từ nay đến năm 2010. Những chương trình, dự án và chuyên đề này có mối quan hệ chặt chẽ, tác động tương hỗ và được phân công cho từng cơ quan chủ trì thực hiện. Giao cho Ban Cán sự đảng ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các sở, ngành chức năng tạo điều kiện thuận lợi, nhất là tìm các nguồn vốn cân đối, ưu tiên bố trí và phân kỳ đầu tư cho các dự án trọng điểm, bảo đảm đủ nguồn vốn để thực hiện. Tỉnh ủy sẽ căn cứ vào các danh mục trong chương trình này để chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện. Định kỳ tổ chức sơ kết kiểm điểm đánh giá kết quả thực hiện,... Bảo đảm các mục tiêu, nhiệm vụ đã nêu trong nghị quyết đại hội, chương trình hành động phải được triển khai đầy đủ và quyết tâm thực hiện có hiệu quả trên thực tế.

* *
*

Trên cơ sở xác định nhiệm vụ cụ thể, lựa chọn những khâu mang tính đột phá, quyết định sự chuyển mình của Đảng bộ trong chặng đường 5 năm tới, Đảng bộ Kiên Giang quyết tâm đổi mới cách tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết, làm cho nghị quyết thật sự đi vào cuộc sống, góp phần đưa tỉnh nhà phát triển ngày càng mạnh mẽ và vững chắc, xứng đáng là một địa bàn chiến lược ở biên giới tận cùng phía Tây Nam của Tổ quốc.

* Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang