TCCSĐT - Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cách mạng Việt Nam đã và đang thực hiện bước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội - con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Con đường ấy đòi hỏi cần phải nắm vững biện chứng sự vận động, phát triển của các mâu thuẫn trong xã hội, thông qua đó, giải quyết một cách đúng đắn, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam đi đến thắng lợi.

Học thuyết Mác - Lê-nin về mâu thuẫn

Lịch sử tư tưởng nhân loại đã sớm phát hiện ra mâu thuẫn và tìm cách giải quyết mâu thuẫn theo những hướng tiếp cận khác nhau. Song, phải cho đến khi triết học mác-xít ra đời mới tạo ra bước phát triển vượt bậc cho lý luận về mâu thuẫn. C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã tách phép biện chứng ra khỏi cái vỏ duy tâm thần bí trong triết học Hê-ghen khi khẳng định: “Sai lầm chủ yếu của Hê-ghen là ở chỗ ông hiểu mâu thuẫn của hiện tượngsự thống nhất trong bản chất, trong ý niệm, kỳ thực bản chất của mâu thuẫn ấy cố nhiên là một cái gì đó sâu sắc hơn, cụ thể là mâu thuẫn bản chất”(1). C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã xác định mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản chủ nghĩa và đề ra nhiệm vụ của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ph. Ăng-ghen viết: “Mâu thuẫn giữa sản xuất xã hội và sự chiếm hữu tư bản chủ nghĩa biểu hiện ra thành sự đối kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản”(2).

Tuy nhiên, sinh thời C. Mác và Ph. Ăng-ghen, vấn đề quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên thực tế chưa trở nên cấp thiết mà phải đến sau này - thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa với sự kế tục của V. I. Lê-nin, chủ nghĩa Mác nói chung và học thuyết mác-xít về mâu thuẫn nói riêng không những được bổ sung, phát triển mà còn từ lý luận trở thành hiện thực.

V. I. Lê-nin tiếp tục phát triển lý luận mâu thuẫn khi chỉ rõ sự phát triển xã hội trong thời đại đế quốc chủ nghĩa nổi lên hai hình thức mâu thuẫn cơ bản. Hình thức thứ nhất là các mâu thuẫn đối kháng, điển hình là mâu thuẫn của các giai cấp cơ bản trong xã hội có giai cấp, giữa một bên bảo thủ, phản động với một bên tiến bộ, cách mạng; giữa tư bản với lao động, chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc bị áp bức. Giải quyết mâu thuẫn này chỉ có thể thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội. Hình thức thứ hai là các mâu thuẫn không đối kháng, tiêu biểu là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp nông dân và các tầng lớp nghèo khổ khác... Người viết: “Ở Nga, giai cấp vô sản chỉ có thể giành được thắng lợi trong một tương lai rất gần nếu ngay từ bước đầu của thắng lợi đó, công nhân đã nhận được sự ủng hộ của đại đa số nông dân...” (3).

Khi đất nước bước vào thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đặt ra yêu cầu phải có nhận thức mới về các mâu thuẫn xã hội. Một điều hợp quy luật là trong thời kỳ ấy luôn chứa đựng cái cũ và cái mới, diễn ra cuộc đấu tranh của các giai cấp dưới các hình thức khác nhau. Bên cạnh đó, đã xuất hiện những mầm mống, những yếu tố của tính thống nhất và sự thuần nhất về mặt xã hội bộc lộ những quy luật vận động hoàn toàn khác so với xã hội tư bản chủ nghĩa. Do vậy, V. I. Lê-nin vừa chú ý đến các mâu thuẫn, vừa xem xét các mối quan hệ giữa chúng với sự thống nhất xã hội đang phôi thai. Đó là sự phát triển mới của V. I. Lê-nin được thể hiện trên một số khía cạnh như sau:

Một là, Người chỉ ra tính cấp thiết của việc nghiên cứu về các mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ quá độ. Phát hiện ra những mâu thuẫn quyết định sự hiểu biết khoa học về hiện thực và không thể lãnh đạo bước quá độ nếu không phân tích các mâu thuẫn. “Mâu thuẫn của cuộc sống sinh động: đó là toàn bộ then chốt của vấn đề” (4) và “vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế - xã hội khác nhau... chính là như thế nào” (5). Trong thời kỳ quá độ, V.I. Lê-nin chỉ ra nhiều thành phần kinh tế còn tồn tại gắn với các giai cấp, tầng lớp mà mục đích và lợi ích khác nhau. Điều đó làm cho tính chất mâu thuẫn càng thêm phức tạp và biểu hiện tính đặc thù.

Hai là, V. I. Lê-nin đã vạch ra hệ thống các kiểu mâu thuẫn mới nảy sinh trong thời kỳ quá độ như: mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu, mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản, mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, đồng thời xác định vai trò của chúng trong sự phát triển của xã hội. Đặc biệt, Người đã chú trọng cụ thể hóa mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài trong điều kiện nước Cộng hòa Xô-viết ở giữa vòng vây của các nước tư bản, nhận thức đúng kẻ thù bên trong, kẻ thù bên ngoài nhằm xác định phương thức đấu tranh phù hợp. Mối quan hệ ấy cũng chính là một trong những cơ sở quan trọng cho V. I. Lê-nin phát triển lý luận về cách mạng xã hội. Người chỉ rõ: các cuộc cách mạng “chín muồi trong quá trình phát triển lịch sử và nó bùng nổ vào lúc mà toàn bộ hàng loạt những nguyên nhân ở trong và ngoài nước quyết định” (6).

Ba là, V. I. Lê-nin đã phát hiện ra mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa tư bản: “... Không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế - xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh...” (7). Hơn nữa, V. I. Lê-nin còn vạch ra mâu thuẫn của toàn bộ lịch sử thời đại mới. Người viết: “Chúng ta không thể biết những phong trào lịch sử cá biệt của một thời đại nào đó sẽ phát triển nhanh chóng đến mức nào... Nhưng chúng ta có thể biết và chúng ta biết giai cấp nào đứng ở trung tâm thời đại này hay thời đại khác và xác định nội dung căn bản, phương hướng phát triển chính của thời đại ấy, những đặc điểm chủ yếu của bối cảnh lịch sử của thời đại ấy, v.v.” (8) và “việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và các tàn tích của nó, việc thiết lập những cơ sở của chế độ cộng sản là nội dung của cái thời đại mới vừa mới bắt đầu của lịch sử toàn thế giới” (9).

Bốn là, trong khi phát hiện và luận chứng một cách khoa học những kiểu mâu thuẫn mới, V.I. Lê-nin đã phân tích một cách sâu sắc về mâu thuẫn đối kháng, mâu thuẫn không đối kháng và chỉ ra: mâu thuẫn không đối kháng là một kiểu mâu thuẫn đặc thù của chủ nghĩa xã hội. Người chỉ ra sự đối kháng và mâu thuẫn hoàn toàn không phải là một, cái thứ nhất sẽ mất đi, cái thứ hai vẫn còn trong chủ nghĩa xã hội.

Bàn về mâu thuẫn không đối kháng, V.I. Lê-nin lưu ý đến mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân. Người chỉ ra: “nông dân với tư cách là người lao động = bạn đồng minh; với tư cách là người tư hữu và đầu cơ = kẻ thù” (10) và “toàn thể nông dân đã đi theo chúng ta... Các Xô-viết đã tập hợp được nông dân nói chung” (11). Do vậy, theo Người, giai cấp nông dân cơ bản có mâu thuẫn với giai cấp công nhân nhưng sự thống nhất lợi ích cơ bản đã vượt qua sự bất đồng giữa họ. Đây chính là đặc điểm quan trọng nhất của mâu thuẫn không đối kháng. Loại mâu thuẫn này vừa chứa đựng các khuynh hướng mâu thuẫn, lại vừa bao hàm những lợi ích cơ bản thống nhất đang vượt qua sự mâu thuẫn đó làm cho sự đối lập của chúng giảm dần trong quá trình phát triển. Để giải quyết nó cũng phải thông qua đấu tranh nhưng với tính chất hoàn toàn khác, là một quá trình lâu dài, tiến hành từng bước dưới các hình thức giáo dục, thuyết phục là chủ yếu.

Những cống hiến của V. I. Lê-nin trong phát triển học thuyết mác-xít về mâu thuẫn còn diễn tiến khi lần đầu tiên Người đưa ra phương pháp kết hợp các mặt đối lập, hình thành sự thống nhất xã hội. Cơ sở khách quan là các mặt đối lập không đối lập tuyệt đối mà trong những điều kiện nhất định sẽ có những khuynh hướng chung, những yếu tố đồng nhất chiếm ưu thế dẫn đến sự thống nhất. Theo V. I. Lê-nin, mặc dù “Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối”(12) nhưng: “... dù sao chúng ta cũng học được ít nhiều chủ nghĩa Mác, đã học được làm thế nào và khi nào có thể và cần phải thống nhất các mặt đối lập, và điều chủ yếu là trong thời gian ba năm rưỡi của cuộc cách mạng của chúng ta, trong thực tiễn chúng ta đã nhiều lần thống nhất các mặt đối lập” (13). Cũng từ chủ trương này, V. I. Lê-nin đã nhìn ra khả năng lợi dụng sự bất đồng trong nội bộ giai cấp tư sản để tạo ra sự trùng nhau một cách khách quan lợi ích cho phép thống nhất với nhau để đạt mục đích của giai cấp vô sản. V. I. Lê-nin giải thích: “Tôi và người Pháp theo phái quân chủ đó đã bắt tay nhau, tuy rằng hai bên đều biết chắc rằng mình rất muốn treo cổ “đồng minh” của mình lên. Nhưng tạm thời lợi ích của chúng tôi thống nhất với nhau... chúng tôi vì lợi ích của cách mạng xã hội chủ nghĩa Nga và quốc tế, đã lợi dụng những lợi ích đối chọi nhau, cũng không kém tham tàn, của bọn đế quốc khác” (14).

Chính sách kinh tế mới (NEP) là một sản phẩm của tư duy kết hợp các mặt đối lập của V. I. Lê-nin. NEP cho phép chủ nghĩa tư bản và sự tự do buôn bán tồn tại trong những phạm vi nhất định. “Một nhà buôn sỉ, cái đó có vẻ như một loại điển hình kinh tế, cách xa chủ nghĩa cộng sản chẳng khác nào đất với trời. Nhưng trong thực tế sinh động, chính đó lại là một trong những mối mâu thuẫn sẽ dẫn chúng ta từ nền kinh tế tiểu nông tiến lên chủ nghĩa xã hội” (15). Tất nhiên, không phải tất cả các mặt đối lập đều có thể kết hợp mà cần tính toán nghiêm ngặt khả năng cho sự kết hợp ấy. Vấn đề trọng yếu là kết hợp thế nào để có được sự thống nhất hài hòa, không phải theo nghĩa hoàn toàn triệt tiêu sự đối lập mà làm cho cái chung trùng hợp với nhau tạo ra hiệu quả và lợi ích lớn nhất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản.

Sự vận dụng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Như vậy, trong điều kiện lịch sử của thời kỳ quá độ, V. I. Lê-nin đã không ngừng làm phong phú và phát triển học thuyết mác-xít về mâu thuẫn lên một tầm cao mới, xây dựng cơ sở khoa học vững chắc cho đường lối lãnh đạo cách mạng của các đảng cộng sản trên thế giới. Đối với Việt Nam, thực hiện bước quá độ gián tiếp là một con đường hoàn toàn mới nhưng “phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử” (16). Do đó, cần có sự vận dụng một cách sáng tạo học thuyết mác-xít về mâu thuẫn nói chung và những tư tưởng của V. I. Lê-nin về nhận định và giải quyết các mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng vào điều kiện nước ta để tạo ra động lực nội tại to lớn, thúc đẩy nhanh quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phát triển vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể trên một số vấn đề sau đây:

Trước hết, cần khẳng định sự tồn tại của các mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam là một tất yếu khách quan. Chối bỏ mâu thuẫn hiện thực, nuôi ảo tưởng về một thế giới không có mâu thuẫn là xa rời thực tiễn. V. I. Lê-nin đã dạy: “tính chất biện chứng của sự phát triển xã hội, diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn” (17). Những mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ nhân dân là những xung lực trực tiếp để xã hội luôn luôn vận động và phát triển đòi hỏi chúng ta cần phải hiểu đúng bản chất, phân tích cụ thể. Thái độ đúng đắn đối với mâu thuẫn không phải là phủ nhận, tìm cách xóa bỏ nó một cách chủ quan mà phải nghiên cứu, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, giải quyết kịp thời để thúc đẩy sự phát triển. Mâu thuẫn xã hội chỉ có thể được giải quyết khi đã đến độ chín muồi và những điều kiện tồn tại của nó không còn trong xã hội. Đó là một quá trình khách quan không phụ thuộc ý muốn chủ quan của con người. Mâu thuẫn chỉ trở thành động lực thực sự của sự phát triển khi con người nhận thức được nó và có cách giải quyết đúng đắn.

Thứ hai, cần nhận thức rõ ràng mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay. Đó là mâu thuẫn giữa khuynh hướng tư bản chủ nghĩa với khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. Là mặt đối lập với khuynh hướng xã hội chủ nghĩa, khuynh hướng tư bản chủ nghĩa vừa tồn tại trong tàn dư của xã hội cũ, vừa tồn tại trong các yếu tố mới hình thành trong công cuộc đổi mới. Mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay biểu hiện tập trung ở lĩnh vực chính trị là mâu thuẫn giữa chủ thuyết độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và khuynh hướng tư bản chủ nghĩa; giữa những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với âm mưu và các thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch...

Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, mâu thuẫn cơ bản được biểu hiện tập trung giữa quá trình hoàn thiện nền văn hóa tiên tiến, đàm đà bản sắc dân tộc với tình trạng tha hóa, xuống cấp về văn hóa, đạo đức, lối sống trong xã hội; mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại, giữa tăng trưởng kinh tế và mục tiêu tiến bộ công bằng xã hội;...

Mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay, nổi bật nhất là trên lĩnh vực kinh tế, đó là mâu thuẫn giữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự lỗi thời, thiếu hoàn thiện của hệ thống tổ chức, quản lý tương ứng; giữa mục tiêu từng bước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu với tình trạng phát triển còn thấp của lực lượng sản xuất; giữa đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nguy cơ hủy hoại môi trường sinh thái. Cùng với đó, ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế có lợi ích khác biệt. Tất nhiên, sự đối lập đó chỉ có tính chất cục bộ, còn sự thống nhất là cơ bản, thể hiện ở tính chỉnh thể của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế thị trường “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật...” (18).

Những nhận thức đó chính là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng của V. I. Lê-nin về phương pháp kết hợp các mặt đối lập. Thừa nhận sự tồn tại khách quan của kinh tế tư nhân trong suốt thời kỳ quá độ ở Việt Nam, về bản chất, là thừa nhận sự đối lập với kinh tế xã hội chủ nghĩa. Song, do nó vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển nên vẫn được xem là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Trên thực tế, sự vận dụng ấy đã và đang đem lại hiệu quả tích cực, góp phần to lớn vào thành tựu của 30 năm đổi mới ở Việt Nam hiện nay.

Thứ ba, vận dụng tư tưởng của V. I. Lê-nin phải phân biệt rõ giữa mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng trong xã hội để xác định phương hướng giải quyết đúng đắn.

Trong xã hội nước ta hiện nay, các mâu thuẫn phổ biến thuộc về mâu thuẫn không đối kháng. Đó là mâu thuẫn giữa các giai tầng, các nhóm xã hội có lợi ích cục bộ, tạm thời khác biệt. Để giải quyết các mâu thuẫn ấy chủ yếu phải thông qua các biện pháp giáo dục, thuyết phục, thỏa thuận, hợp tác... mà không cần đến sự trấn áp bằng sức mạnh bạo lực. Đặc biệt, đối với vấn đề xây dựng liên minh công nhân - nông dân - trí thức, việc nhận thức và giải quyết các mâu thuẫn không đối kháng trên cơ sở thống nhất chung về lợi ích là một phương hướng hữu hiệu, góp phần hoàn thiện nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - một động lực to lớn để phát triển xã hội.

Bên cạnh đó, những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội ta không phải đã mất đi. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội hoàn toàn đối lập “một mất, một còn” với khuynh hướng tư bản chủ nghĩa; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch cũng hoàn toàn mâu thuẫn với sự nghiệp cách mạng nước ta. Do vậy, trong suốt thời kỳ quá độ, cuộc đấu tranh quyết liệt, không khoan nhượng giữa các lực lượng đối kháng này chính là quá trình giải quyết một cách triệt để các mâu thuẫn đối kháng.

Nhận thức sâu sắc các thuộc tính hợp thành mâu thuẫn biện chứng trong đời sống xã hội là thành tựu khoa học vĩ đại của tri thức nhân loại gắn liền với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cùng với những cống hiến của V. I. Lê-nin, học thuyết mác-xít về mâu thuẫn được bồi đắp, phát triển lên một tầm cao mới. Việc vận dụng, nhận định, phân tích, làm rõ các mâu thuẫn xã hội ở Việt Nam là một vấn đề có ý nghĩa to lớn, góp phần làm sâu sắc lý luận chủ nghĩa Mác về mâu thuẫn trong đời sống xã hội, đặc biệt trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội./.
------------------------------

(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 1, tr. 447 - 448

(2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Sđd, t. 20, tr. 377

(3) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 31, tr. 71

(4) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 44, tr. 608

(5) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 43, tr. 248

(6) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 36, tr. 661

(7) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 39, tr. 309

(8) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 26, tr. 174

(9) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 41, tr. 504

(10) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 39, tr. 517

(11) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 37, tr. 384

(12) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 29, tr. 379

(13) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 42, tr. 259

(14) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 37, tr. 66

(15) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 44, tr. 190

(16) Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI tại Đại họi đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tr. 9

(17) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 20, tr. 77 - 78

(18) Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tr. 29