Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và nỗ lực đẩy mạnh xuất khẩu, tìm kiếm, mở rộng thị trường cho hàng hóa và dịch vụ nói riêng, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nắm được những vấn đề cơ bản của thương mại quốc tế. Trong các nội dung của thương mại quốc tế ngày nay, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là một vấn đề không mấy xa lạ với các nước trên thế giới nhưng lại khá mới mẻ đối với ngay cả các cơ quan và cán bộ làm công tác hội nhập và xây dựng chính sách kinh tế - thương mại của nước ta.

Hoạt động sở hữu công nghiệp bao hàm mọi hoạt động xã hội liên quan tới các đối tượng là kết quả của hoạt động sáng tạo kỹ thuật (sáng chế, giải pháp hữu ích, bí quyết sản xuất, thiết kế vi mạch, chủng vi sinh, giống sinh vật); của hoạt động sáng tạo mỹ thuật ứng dụng (kiểu dáng công nghiệp) và của hoạt động sáng tạo trong kinh doanh (nhãn hiệu hàng hóa; nhãn hiệu dịch vụ; bí mật thương mại; các chỉ dẫn thương mại; đặc quyền thương mại)... Các hoạt động nói trên có tính chất pháp lý liên quan tới các vấn đề kinh tế (vật chất) và tinh thần trong quá trình khai thác, sử dụng các đối tượng đó.

Mục tiêu của hoạt động sở hữu công nghiệp là khuyến khích hoạt động sáng tạo khoa học - công nghệ; cổ vũ đầu tư tìm kiếm các giải pháp kỹ thuật - mỹ thuật ứng dụng cũng như các sáng kiến kinh doanh mới; thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh đồng thời sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả nhất các nguồn lực trí tuệ của xã hội.

Biện pháp để đạt được các mục tiêu trên là thông qua việc vận hành hệ thống các quy phạm pháp luật mà xây dựng và duy trì một lĩnh vực hoạt động gọi là hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp - trong đó quan hệ giữa các chủ thể liên quan tới đối tượng trên mang nội dung quan hệ quyền và nghĩa vụ và các quan hệ đó được điều chỉnh sao cho phù hợp với xu thế phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp được cấu thành bởi ba hệ thống chủ chốt, đó là: hệ thống bảo hộ sáng chế (hay còn gọi là hệ thống patent); hệ thống bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa và hệ thống bảo hộ thông tin bí mật. Nguyên tắc chung của cả ba hệ thống này là thông qua việc thừa nhận và bảo vệ của pháp luật đối với quyền sở hữu công nghiệp mà chủ thể các quyền đó (người nắm giữ quyền) được bảo đảm các điều kiện thuận lợi nhất trong một thời gian nhất định đủ để khai thác nhằm không những bù đắp các chi phí đầu tư tạo ra giá trị của các đối tượng đó mà còn có thể thu được lợi nhuận để tiếp tục tạo ra các thành tựu mới. Một cách tổng quát, mọi đối tượng nói trên đều được coi là đối tượng sở hữu, các quan hệ xã hội liên quan tới các đối tượng đó được điều chỉnh chủ yếu theo nguyên tắc điều chỉnh các quan hệ sở hữu.

Theo thông lệ trên thế giới cũng như quy định tại các điều ước quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ, sở hữu trí tuệ bao gồm 2 nhánhquyền sở hữu công nghiệp quyền tác giả (Quyền sở hữu công nghiệp bao gồm quyền đối với: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, bí mật thương mại v.v.; Quyền tác giả gồm quyền đối với: các tác phẩm văn học nghệ thuật, quyền của các nhà ghi âm, các nghệ sĩ biểu diễn, các tổ chức phát thanh truyền hình v.v..). Theo nghĩa rộng nhất, sở hữu trí tuệ có nghĩa là quyền pháp lý phát sinh từ hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học và nghệ thuật. Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhằm hai mục đích: bảo đảm về mặt pháp lý đối với quyền vật chất và tinh thần của các nhà sáng tạo đối với các kết quả sáng tạo của họ và quyền của công chúng được tiếp cận các thành quả sáng tạo này; thúc đẩy các hoạt động sáng tạo, phổ biến và ứng dụng các thành quả sáng tạo và khuyến khích kinh doanh lành mạnh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội.

Thuật ngữ "sở hữu công nghiệp" đôi khi bị hiểu nhầm là liên quan đến các động sản hoặc bất động sản được sử dụng cho sản xuất công nghiệp, chẳng hạn như các nhà máy, các trang thiết bị phục vụ sản xuất công nghiệp v.v.. Tuy nhiên, sở hữu công nghiệp là một loại tài sản trí tuệ và do đó chúng liên quan đến các thành quả sáng tạo trí tuệ của con người. Điển hình của các thành quả sáng tạo này là các sáng chế và các kiểu dáng công nghiệp. Ngoài ra, sở hữu công nghiệp còn bao gồm nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa, chỉ dẫn địa lý và bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh. Thuật ngữ "quyền sở hữu công nghiệp" sử dụng trong Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của Việt Nam được hiểu theo nghĩa rộng nhất, không chỉ bao hàm những gì liên quan tới "công nghiệp". Đây là một định nghĩa truyền thống về sở hữu công nghiệp trên thế giới.

Nội dung quyền sở hữu công nghiệp cũng có đầy đủ 3 loại quyền năng quy định tại Chương 2, Phần thứ 6 của Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, vì đây là một loại tài sản vô hình nên quyền sử dụng và quyền định đoạt có ý nghĩa lớn hơn so với quyền chiếm hữu. Giống như mọi loại quyền sở hữu khác, quyền sở hữu công nghiệp phải được thực hiện phù hợp với các quy định của pháp luật. Ngoài những quy định chung điều chỉnh về tài sản, quyền tài sản, Bộ luật Dân sự có riêng Chương 2, Phần thứ 6 quy định về quyền sở hữu công nghiệp.

Để giúp các doanh nghiệp xuất khẩu thiết lập quyền sở hữu công nghiệp của mình trên thị trường nội địa và bước ra thương trường thế giới với mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn, chúng ta phải tập trung một số giải pháp sau:

Thứ nhất, Nhà nước phải hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc đăng ký, xác lập quyền sở hữu công nghiệp.

Trong nhóm giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp được nhấn mạnh vì quyền sở hữu công nghiệp là một loại tài sản của doanh nghiệp. Vì vậy, bản thân doanh nghiệp chính là người phải chủ động thực hiện mọi biện pháp để bảo vệ quyền của mình. Nhà nước chỉ tạo ra những cơ chế, hành lang pháp lý thích hợp để các chủ thể bảo vệ quyền của mình. Giải pháp hỗ trợ kinh phí để doanh nghiệp tiến hành đăng ký xác lập quyền không phải là giải pháp có hiệu quả. Cần phải nhắc lại rằng việc đăng ký xác lập quyền chỉ là một công đoạn đầu tiên trong một quá trình lâu dài để bảo vệ, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ, trong đó có quyền sở hữu công nghiệp. Nhà nước hỗ trợ tài chính để doanh nghiệp đăng ký xác lập quyền trong khi doanh nghiệp không hiểu rõ vai trò, ý nghĩa cũng như không có chiến lược cho hoạt động sở hữu công nghiệp thực tế sẽ phản tác dụng, làm cho doanh nghiệp ảo tưởng rằng chỉ cần đăng ký quyền là đủ mà không có bất cứ hành động nào khác để khai thác cũng như bảo vệ quyền đó. Hơn nữa, việc lấy ngân sách nhà nước (thực tế là tiền đóng thuế của các doanh nghiệp) để hỗ trợ cho một số doanh nghiệp nào đó đơn thuần để đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp là không công bằng, không bình đẳng trong hoạt động kinh doanh. Trong giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp, có một cách tiếp cận có hiệu quả đối với các doanh nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay, đó là cách tiếp cận tập thể - tiếp cận theo ngành hàng.

+ Đối với các loại nông phẩm: Dường như phương thức tiếp cận tập thể để bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là có hiệu quả nhất. Ví dụ điển hình là trường hợp cà-phê Cô-lôm-bi-a. Hành khách đi trên các hãng hàng không thường nghe thấy lời mời của tiếp viên về loại sản phẩm này. Khi đó, chúng ta có thể thấy tất cả những người sản xuất và buôn bán loại sản phẩm này của Cô-lôm-bi-a đều được hưởng lợi. Liên hệ với các sản phẩm xuất khẩu tương tự của Việt Nam, nếu từng doanh nghiệp sản xuất, chế biến cà-phê tiến hành quảng bá sản phẩm của mình với các nhãn hiệu riêng rẽ, sẽ rất khó có thể đạt được thành công trên thị trường quốc tế, nhất là hiện nay loại sản phẩm này hầu hết được xuất khẩu dưới dạng cà-phê hạt (sản phẩm thô). Trong trường hợp đó, khi các doanh nghiệp chế biến của nước ngoài mua nguyên liệu thô của Việt Nam và chế biến, gắn nhãn hiệu của họ vào sản phẩm và tung ra thị trường thì khi đó sẽ không còn mối liên quan nào đến Việt Nam trong sản phẩm đó.

+ Tương tự như vậy là đối với sản phẩm gạo: Người tiêu dùng thường biết đến một loại gạo mà họ mua xuất xứ từ nước nào trước khi họ quan tâm đến việc hãng bán lẻ nào cung cấp loại gạo đó. Chưa nói đến việc tự mình tạo ra một mạng lưới phân phối và sử dụng riêng nhãn hiệu của mình trên bao bì bán lẻ hàng hóa, việc làm cho khách hàng biết được nguồn gốc gạo của Việt Nam hiện vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.

+ Đối với sản phẩm dệt, may: Khi hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu hướng tới các thị trường của các nước phát triển thì việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa của riêng mình hay sử dụng nhãn hiệu của các hãng nổi tiếng trên thế giới cũng là một vấn đề đáng quan tâm trong kinh doanh. Một số công ty may mặc có truyền thống và đã có những thành công nhất định ở thị trường nước ngoài có thể nghĩ đến việc sử dụng nhãn hiệu riêng của mình (chẳng hạn Công ty May 10). Tuy nhiên, hầu hết các công ty may mặc của Việt Nam chủ yếu gia công cho các hãng nước ngoài. Trong trường hợp đó, đương nhiên bên đặt gia công sẽ yêu cầu doanh nghiệp Việt Nam phải gắn trên sản phẩm nhãn hiệu của họ. Ngay cả trong trường hợp doanh nghiệp Việt Nam tự sản xuất (không phải là gia công) thì việc không có hệ thống phân phối ở nước ngoài cũng là một trở ngại cho các doanh nghiệp khi sử dụng nhãn hiệu của mình trên sản phẩm. Khi mua sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam sau đó gắn những nhãn hiệu nổi tiếng, các doanh nghiệp nhập khẩu của nước ngoài có thể thu được lợi nhuận rất lớn. Đó cũng là lý do vì sao có rất nhiều ý kiến của các doanh nghiệp dệt may cho rằng, không cần thiết phải đăng ký và sử dụng nhãn hiệu hàng hóa của mình ở nước ngoài mà thay vào đó là xuất khẩu hàng không gắn nhãn hiệu, còn sau đó việc gắn nhãn hiệu nào vào sản phẩm đó là công việc của người nhập khẩu hàng. Như vậy, Nhà nước cần tập trung vào hỗ trợ các ngành hàng xác lập quyền sở hữu công nghiệp ở nước ngoài thay vì hỗ trợ từng doanh nghiệp xuất khẩu. Giải pháp này đặc biệt phù hợp với đối tượng quyền sở hữu công nghiệp là chỉ dẫn địa lý/tên gọi xuất xứ hàng hóa.

Thứ hai, hỗ trợ thành lập các tổ chức quản lý tập thể chỉ dẫn địa lý/tên gọi xuất xứ hàng hóa.

Ở nước ta, hầu như mỗi địa phương đều có không ít các đặc sản truyền thống mang tên của địa phương đó (như nước mắm Phú Quốc, cà-phê Đắc Lắc, bưởi năm roi Bình Minh, xoài cát Hòa Lộc, thanh long Bình Thuận, v.v.). Nhiều đặc sản được người tiêu dùng ưa chuộng, vì thế bị làm giả ở mức độ khác nhau và vì vậy doanh nghiệp cũng đã ít nhiều thấy được sự cần thiết phải có sự bảo hộ pháp lý đối với tên gọi của sản phẩm. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thường không biết sản phẩm của mình có đáp ứng các điều kiện luật định để được hưởng sự bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp hay không. Bởi vậy, họ cần được hỗ trợ trong việc đánh giá sơ bộ khả năng đáp ứng các điều kiện bảo hộ đó. Mặt khác, công việc xác định và chứng minh các điều kiện bảo hộ rất tốn công và tốn của, trong khi cộng đồng doanh nghiệp chưa thể khẳng định được giá trị kinh tế thực sự do sự bảo hộ đem lại. Bởi vậy, họ cần được hỗ trợ về phương pháp luận và các nguồn lực để đánh giá sự cần thiết phải bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm của địa phương mình.

Chỉ dẫn địa lý được coi là tài sản quốc gia, vì thế, để hỗ trợ những cộng đồng chưa đủ điều kiện có tổ chức đại diện của mình, Ủy ban nhân dân các tỉnh có thể thành lập hoặc chỉ định một tổ chức tạm thời thực hiện chức năng của tổ chức quản lý tập thể đối với chỉ dẫn địa lý. Tuy nhiên, hiệp hội các nhà sản xuất, nếu được thành lập, sẽ là chủ thể bảo vệ quyền của chính mình một cách thiết thực hơn. Vì vậy, mục tiêu cuối cùng vẫn là phải thành lập một tổ chức quản lý tập thể đối với chỉ dẫn địa lý của cộng đồng các doanh nghiệp sản xuất đặc sản đó. Cần có sự hỗ trợ về tài chính cho các tổ chức này hoạt động trong giai đoạn đầu và nguồn hỗ trợ chính phải là ngân sách nhà nước vì chỉ dẫn địa lý được coi là tài sản quốc gia. Khuôn khổ hỗ trợ thích hợp là Chương trình xúc tiến thương mại vì chỉ dẫn địa lý là phương tiện xúc tiến thương mại.

Thứ ba, doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược về sở hữu công nghiệp.

Tương tự như chiến lược kinh doanh, muốn bảo hộ có hiệu quả quyền sở hữu công nghiệp, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược về hoạt động này. Chiến lược về bảo hộ sở hữu công nghiệp thường phải gắn chặt với chiến lược kinh doanh, đặc biệt khi doanh nghiệp có chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu. Chiến lược sở hữu công nghiệp của doanh nghiệp phải đặt ra được những nội dung sau:

- Xác định các đối tượng sở hữu công nghiệp chủ yếu của doanh nghiệp

Trong nội dung này, tùy vào quy mô của mình mà doanh nghiệp phải xác định danh mục các quyền sở hữu công nghiệp mà mình đang có hoặc phấn đấu sẽ có được. Chẳng hạn, hầu hết các doanh nghiệp phải đưa tên thương mại và nhãn hiệu hàng hóa vào danh mục các đối tượng sở hữu công nghiệp của mình. Có thể nói rằng, không doanh nghiệp nào có thể hoạt động được, nhất là các doanh nghiệp có chiến lược làm ăn lâu dài, mà thiếu được hai đối tượng sở hữu công nghiệp này.

- Xác định cách thức tạo dựng (nguồn) của khối tài sản sở hữu công nghiệp

Các quyền sở hữu công nghiệp có thể phát sinh từ các thành quả sáng tạo của chính doanh nghiệp, cũng có thể được tạo dựng bằng cách nhận chuyển nhượng từ người khác, bao gồm cả việc được cấp li-xăng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp. Khi xác định cách thức tạo dựng quyền sở hữu công nghiệp, doanh nghiệp cần đặc biệt lưu ý đến lợi thế cạnh tranh nói chung. Không nên tập trung vào việc tạo dựng những tài sản trí tuệ cần đến sự đầu tư quá lớn, không phù hợp với khả năng tài chính của doanh nghiệp.

- Xác định lãnh thổ cần bảo hộ đối với từng đối tượng sở hữu công nghiệp

Đây là nội dung có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược sở hữu công nghiệp vì nó liên quan đến các hoạt động xác lập, khai thác và bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp. Lãnh thổ bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp được xác định phù hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp sẽ không nhất thiết phải tiến hành bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp ở tất cả các thị trường mà mình kinh doanh. Có những thị trường mà việc đưa trực tiếp hàng hóa mang nhãn hiệu của mình vào hệ thống bán lẻ là không thể được thì cũng có nghĩa là doanh nghiệp cần sử dụng quyền sở hữu công nghiệp của người khác bằng cách mua li-xăng.

- Xác định bộ máy quản lý quyền sở hữu công nghiệp

Tùy thuộc vào quy mô của doanh nghiệp, việc quản lý quyền sở hữu công nghiệp có thể được giao cho các bộ phận liên quan đến kinh doanh hoặc thành lập ra những bộ phận chuyên môn để quản lý quyền sở hữu công nghiệp. Trong hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, danh mục các tài sản sở hữu công nghiệp còn hạn chế, do vậy phương thức phù hợp hơn cả là giao chức năng quản lý quyền sở hữu công nghiệp của doanh nghiệp cho bộ phận có chức năng quản lý kinh doanh.

Thứ tư, doanh nghiệp cần đầu tư nhân lực, vật lực cho việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp.

Sở hữu công nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp với quy mô khác nhau. Những doanh nghiệp lớn nói chung có các phòng, ban chuyên trách về phát triển và thực hiện chiến lược về sở hữu công nghiệp, gồm đội ngũ nhân viên với đầy đủ kiến thức và kỹ năng cần thiết, có thể là các luật sư, các kỹ sư, nhà khoa học, nhà kinh tế, các chuyên gia nghiên cứu thị trường... Đối với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ cần có một bộ phận hoặc một người chuyên trách về vấn đề sở hữu công nghiệp. Hơn nữa, do sở hữu công nghiệp là một lĩnh vực đặc thù có quan hệ tới tất cả các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, pháp lý nên những người trực tiếp tiến hành các công việc về sở hữu công nghiệp đòi hỏi phải có hiểu biết về các vấn đề đó.

* Bộ Thương mại