Nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa
TCCS - Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là chủ trương đúng đắn nhằm giúp cho doanh nghiệp kinh doanh năng động hơn trong nền kinh tế thị trường. Dù vậy, sau gần 20 năm thực hiện cổ phần hóa, hoạt động trong lĩnh vực này vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Việc tìm ra những giải pháp để đẩy nhanh tiến trình hoạt động của các doanh nghiệp không chỉ là trách nhiệm của riêng Nhà nước mà còn là đòi hỏi của nhà quản trị doanh nghiệp.
Bài học cổ phần hóa doanh nghiệp ở một số quốc gia
Sau chiến tranh thế giới thứ II, khu vực doanh nghiệp nhà nước ở hầu hết các nước trên thế giới phát triển hạn chế, yếu kém. Vì vậy, chính phủ nhiều nước đã tiến hành cải cách và cơ cấu lại khu vực này làm cho nó năng động và hoạt động hiệu quả hơn thông qua hình thức cổ phần hóa các doanh nghiệp do nhà nước quản lý.
Kinh nghiệm cho thấy, ở các nước phát triển có nền kinh tế thị trường lâu đời, khi thực hiện công việc này đã đạt nhiều thành công từ phía nhà nước lẫn doanh nghiệp. Nhà nước sẽ thu về một khoản tài chính nhờ bán bớt phần vốn của mình, từ đó có vốn để đầu tư cho các dự án trọng điểm cần thiết, các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa đã tập trung được vốn xã hội để nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất trong cạnh tranh, tạo ra lợi nhuận tối đa cho bản thân trong điều kiện hoạt động của nền kinh tế thị trường.
Ngược lại, mô hình này ở các nước Đông Âu và Liên bang Nga lại kém hiệu quả. Những năm 80 - 90 của thế kỷ trước, các nước này đã cổ phần hóa hàng loạt doanh nghiệp nhà nước và tư nhân hóa rộng rãi nền kinh tế quốc doanh, kết quả là tình hình kinh tế bi đát. Nguyên nhân trước hết là, do chính sách thực hiện chưa phù hợp, không lường trước được các hệ lụy có thể xảy ra, dẫn đến tài sản nhà nước biến thành tài sản tư nhân, nguồn tài chính nhà nước thu được khá ít ỏi, nhiều doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa xong, vẫn hoạt động kém hiệu quả. Đó là hệ quả của việc cổ phần hóa bằng mọi giá.
Những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp cổ phần ở một số quốc gia đã bộc lộ những hạn chế về hiệu quả kinh tế. Vì vậy, nhiều chính phủ đã phải bỏ ra cả núi tiền để mua lại doanh nghiệp nhằm cứu vãn một phần nền kinh tế thoát khỏi suy thoái. Năm 2008, Chính phủ Mỹ bỏ ra 700 tỉ USD để quốc hữu hóa các ngân hàng và các hãng bảo hiểm lớn nhất thế giới; Chính phủ Anh đã quốc hữu hóa ngân hàng Bradford & Bingley tốn kém 25 tỉ USD; các nước Bỉ, Hà Lan và Lúc-xăm-bua cùng phối hợp quốc hữu hóa phần tài chính của tập đoàn Fortis - ngân hàng lớn nhất của Bỉ...
Thực tế trên cho thấy, quan điểm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở các quốc gia gần như giống nhau, nhưng cách làm lại khác nhau. Khu vực kinh tế nhà nước hay vốn của nhà nước nắm bao nhiêu phần trăm sở hữu tại doanh nghiệp cổ phần không phải là điều quan trọng (chẳng hạn như Pháp hiện nay kinh tế nhà nước chiếm 52%, Đức hơn 40%), các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh chưa hẳn đã kém hiệu quả so với các doanh nghiệp đa thành phần sở hữu, quan trọng là ở chỗ các doanh nghiệp được quản trị ra sao và vận hành như thế nào để đem lại hiệu quả cao.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta - một số vấn đề đặt ra
Chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta là nhất quán, có tính chiến lược nhằm phát triển nền kinh tế, giải quyết tình trạng sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước.
Nhiều doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa hoạt động có hiệu quả, góp phần tăng ngân sách nhà nước, tăng thu nhập cho người lao động, huy động vốn xã hội cũng tăng lên, chấm dứt tình trạng bù lỗ của ngân sách nhà nước, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên việc thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước vẫn còn bộc lộ rất nhiều sơ hở. Nổi bật hơn cả là vấn đề định giá tài sản doanh nghiệp, tổ chức quản lý sau khi doanh nghiệp đã cổ phần hóa... Những hạn chế trên làm cho công tác cổ phần hóa chậm chạp, lợi ích cho người lao động bị xâm hại, lợi ích xã hội không rõ ràng, tài sản của Nhà nước bị thất thoát tập trung vào một số ít người, việc giải quyết vấn đề tài chính trước, trong và sau khi cổ phần hóa còn nhiều bất cập.
Trước khi có Nghị định số 187/2004/NĐ-CP, do chưa tính hết được giá trị vô hình của tài sản nên giá trị tài sản tại doanh nghiệp được đánh giá thấp hoặc quá thấp, nên phần lớn cổ phiếu rơi vào tay một nhóm người cơ hội có quyền lực tại doanh nghiệp, sau khi định giá doanh nghiệp lần hai hoặc lên sàn giao dịch thì giá trị này tăng vọt. Nghị định số 187/2004/NĐ-CP là một bước đột phá, nhưng khi triển khai lại xuất hiện nhiều bất cập mới, có hiện tượng liên kết, gian lận trong đấu thầu. Qua thanh tra việc thực hiện chủ trương này đã phát hiện nhiều doanh nghiệp: xử lý tài chính của các doanh nghiệp trước khi cổ phần hóa không đúng với thực tế sử dụng; xác định giá tài sản giá trị nhà đất của doanh nghiệp khi cổ phần hóa sai quy định của Nhà nước, nhiều công ty có tài sản rất lớn nhưng khi định giá tài sản lại đánh giá rất thấp; bán cổ phần ưu đãi cho người lao động chưa đủ điều kiện về thời gian làm việc tại doanh nghiệp, thậm chí còn bán cho người ngoài công ty theo giá sàn; sử dụng quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp chưa đúng mục đích... đã dẫn đến thất thoát lớn nguồn vốn của Nhà nước.
Sau khi cổ phần hóa, rất nhiều doanh nghiệp vẫn áp dụng phương thức, biện pháp và thói quen tổ chức, quản lý như trước của doanh nghiệp nhà nước vào điều hành để quản trị công ty mới. Mặt khác, bản thân người lao động chưa theo kịp và nhận thức đúng ý nghĩa, lợi ích của cổ phần hóa tại doanh nghiệp. Nhiều người đã bán lúa non cổ phần ưu đãi của mình để hưởng ngay khoản chênh lệch, hoặc bị bắt buộc trở thành cổ đông nên thiếu hiểu biết về quyền, nghĩa vụ của mình về tổ chức, quản trị tại công ty cổ phần do đó chưa phát huy quyền làm chủ hoặc lạm quyền gây khó khăn cho hoạt động quản lý doanh nghiệp.
Không ít tập đoàn, tổng công ty nhà nước sau khi cổ phần hóa có cổ phần chi phối vẫn hoạt động dựa trên lợi thế doanh nghiệp nhà nước, tính độc quyền còn cao, hơn nữa do mới thành lập nên khi đăng ký kinh doanh mới đã đăng ký tràn lan ngành nghề (trừ những ngành nghề luật pháp cấm), đầu tư vào những ngành trước mắt đem về lợi nhuận cao như: thành lập các ngân hàng, công ty tài chính, đầu tư bất động sản và chứng khoán mà ít đầu tư vào lĩnh vực chính của mình.
Một nguyên nhân khác làm quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đang bị chậm lại do khó xác định giá trị quyền sử dụng đất và lợi thế vị trí đất vào giá trị doanh nghiệp bằng thực giá thị trường. Không ít doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần, đã bán cổ phần ra ngoài thị trường nhưng sau một thời gian dài vẫn chưa xác định lại được giá trị doanh nghiệp lần hai để bàn giao vốn từ doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp cổ phần.
Không ít doanh nghiệp khi cổ phần hóa rất muốn có nhà đầu tư có tiềm lực về tài chính, nguyên liệu, thị trường... đầu tư cho mình, song rào cản pháp lý về đối tác chiến lược đã làm hạn chế việc tìm kiếm nhà đầu tư. Theo Nghị định số 187/2004/NĐ-CP, đối tác chiến lược chỉ là những nhà đầu tư trong nước, trong khi một số ngành nghề (da giày, dệt may...) rất cần có các nhà đầu tư nước ngoài vì có lợi thế vượt trội.
Định giá tài sản doanh nghiệp khi cổ phần, ngoài giá trị hữu hình còn có giá trị vô hình: vị trí đất, thương hiệu. Nhiều doanh nghiệp chưa tính hết giá trị quyền sở hữu trí tuệ như nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, các giải pháp hữu ích... mà doanh nghiệp nhà nước trước đây đã phải dày công đầu tư bằng tiền, trí tuệ và uy tín trong một thời gian dài.
Làm thế nào để nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa?
Thực tiễn ở Việt Nam thời gian qua và kinh nghiệm một số nước cho thấy:
Thứ nhất, phát huy cao độ vai trò của tổ chức đoàn thể tại doanh nghiệp chuẩn bị cổ phần hóa. Cơ sở đảng của doanh nghiệp chuẩn bị cổ phần hóa phải lãnh đạo, chỉ đạo cho chính quyền, các tổ chức đoàn thể nghiêm túc thực hiện đúng chủ trương cổ phần hóa của Nhà nước. Với tư cách là đại diện cho người lao động, công đoàn cần phải tuyên truyền làm rõ lợi ích của cổ phần hóa doanh nghiệp. Hơn lúc nào hết, người lao động cần nhìn thấy rõ quyền và nghĩa vụ của mình ở hiện tại, tương lai, không vì lợi ích ít ỏi trước mắt (nhận khoản tiền chênh lệch cổ phần ưu đãi) mà tự đánh mất lợi ích lâu dài của bản thân. ý thức rõ khi đủ điều kiện, cần thiết nghỉ theo chế độ lao động dôi dư, vừa có khoản vốn cho hậu sự, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp sắp xếp lại cơ cấu để hoạt động có hiệu quả cao sau khi cổ phần.
Thứ hai, sau cổ phần hóa, Nhà nước vẫn giữ vai trò chi phối đối với một số ngành nghề trọng điểm, dù tỷ lệ cổ phần có thể chi phối hay không chi phối tại những doanh nghiệp quan trọng như dầu khí, tài chính ngân hàng và bảo hiểm, điện lực, viễn thông, hàng hải,... Kinh nghiệm ở Trung Quốc, Bê-la-rút, cũng như tại nhiều nước trên thế giới, luật pháp cho phép Nhà nước có quyền có cổ phần đặc biệt, tỷ lệ không cao, song vẫn có quyền thông qua hay không thông qua các quyết định quan trọng của doanh nghiệp đã cổ phần hóa.
Thứ ba, phải sắp xếp lại mô hình tổ chức hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước với điều lệ hoạt động cụ thể, có đa thành phần sở hữu. Bằng việc xây dựng mô hình “công ty mẹ, công ty con” bền vững gắn giữa doanh nghiệp quốc doanh lớn với các doanh nghiệp tư nhân nhỏ. Trong doanh nghiệp cổ phần cần có đủ thành phần như vốn nhà nước, vốn tập thể, vốn tư nhân, vốn trong nước, vốn nước ngoài...
Có thể khái quát mô hình như sau:
+ Tổng công ty là doanh nghiệp nhà nước, “công ty mẹ” có vốn khá lớn có cổ phần chi phối tại các doanh nghiệp tư nhân, “công ty con” là thành viên, hưởng lợi nhuận trên tỷ lệ vốn góp sau khi cơ sở tư nhân đã thực hiện xong nghĩa vụ ngân sách. Tổng Công ty chịu trách nhiệm hữu hạn trên số vốn góp vào các đơn vị thành viên. Tổng Công ty và các đơn vị thành viên đều có tư cách pháp nhân. Các “công ty con” là các pháp nhân độc lập, chủ động linh hoạt trong kinh doanh, có thể liên kết với các công ty khác tạo thành các doanh nghiệp cổ phần khác.
+ “Công ty mẹ” chỉ duyệt kế hoạch về vốn đầu tư phát triển kinh doanh, doanh thu, lợi nhuận, tiền lương công nhân; hỗ trợ “công ty con” về công nghệ và thiết bị để đáp ứng yêu cầu sản xuất và chỉ hỗ trợ về thị trường khi “công ty con” gặp khó khăn, nhưng không bao tiêu sản phẩm; chủ động tìm kiếm, nhập khẩu nguyên vật liệu với khối lượng lớn giảm chi phí cho các cơ sở tư nhân; hỗ trợ các cơ sở thành viên thâm nhập thị trường để quảng bá, tiêu thụ sản phẩm...
Thứ tư, thay đổi phương pháp bán cổ phần trên thị trường chứng khoán. Phương thức định giá và bán cổ phần tốt nhất là theo phương thức đấu giá, giá chứng khoán thường sẽ được thông báo sau quá trình đấu giá. Với tư cách là người bán ai mua giá cao sẽ bán chứ không theo kiểu định giá và cách bán cổ phần theo mệnh giá, cao hơn hay thấp hơn mệnh giá. Doanh nghiệp muốn tăng vốn được ưu tiên giá, nhà đầu tư muốn mua phải bỏ giá cao hơn để chiếm thị phần, tận dụng tiềm năng của doanh nghiệp.
|
Báo cáo của Bộ Tài chính cho biết, tính đến thời điểm 15-12-2010, cả nước đã thực hiện sắp xếp được 5.846 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, đã cổ phần hóa được 3.944 doanh nghiệp, chuyển đổi sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 261 doanh nghiệp và sáp nhập, giao bán khoán cho thuê 1.902 doanh nghiệp. Năm 2010 cổ phần hóa được 144 doanh nghiệp, so với năm 2009 đã tăng hơn 77 doanh nghiệp, nhưng tiến độ cổ phần hóa chậm hơn rất nhiều ở giai đoạn 2002 - 2005. |
Mặc dù cổ phiếu được mua bán trên thị trường chứng khoán như là mua bán chính tài sản của doanh nghiệp, nhưng vốn khả dụng của nền kinh tế luôn luôn được duy trì và phát triển. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả, lỗ vốn, nợ nần tăng, thậm chi doanh nghiệp bị phá sản vẫn không mất đi, mà sẽ được bán cho một cổ đông khác và cổ đông mới này sẽ tiếp tục duy trì sự hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ năm, cải cách thể chế quản lý. Trước hết, cần xác định được chủ sở hữu Nhà nước một cách rõ ràng, tách bạch bộ máy quản lý nhà nước với bộ máy thực hiện quyền chủ sở hữu. Nhà nước chỉ với tư cách cổ đông của doanh nghiệp, định hướng phát triển doanh nghiệp phải do Đại hội đồng Cổ đông quyết. Như vậy, việc cổ phần hóa mới đem lại những lợi ích to lớn cho nền kinh tế - xã hội, bởi nó gắn liền trách nhiệm với lợi ích của những chủ thể kinh tế, làm cho họ cần cù hơn, năng động, sáng tạo hơn, có trách nhiệm hơn với công việc kinh doanhcủa mình. Từ đó hiệu quả kinh tế - xã hội được nâng cao./.
Vì sao I-ran thận trọng với các cuộc biểu tình tại Ba-ranh?  (23/03/2011)
Bảo đảm an ninh nguồn nước là vấn đề cấp bách  (23/03/2011)
Kinh tế Bồ Đào Nha liệu có phải nhận gói cứu trợ từ bên ngoài?  (23/03/2011)
Thông cáo số 2, kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XII  (23/03/2011)
Nhật Bản: Động đất mạnh tiếp tục xảy ra ở vùng Đông Bắc  (23/03/2011)
- Về tính chính danh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm