Bảo đảm và thực hiện quyền con người ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế

Vũ Hoàng Công PGS, TS, Tổng Biên tập Tạp chí Lý luận chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
00:28, ngày 13-03-2014
TCCS - Ngày 12-11-2013, Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 68 đã bầu Việt Nam là thành viên của Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016, với 184 phiếu thuận trên 192 phiếu bầu, bất chấp nhiều nỗ lực ngăn cản, chống phá của các thế lực thù địch đối với Việt Nam. Đó là sự khẳng định thành tựu và uy tín của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người tại đất nước mình, đồng thời có những đóng góp trong đấu tranh vì quyền con người trên thế giới.

Trong quá trình hội nhập quốc tế, nhiều nước trên thế giới và khu vực Đông Nam Á đã phải chịu nhiều sức ép về vấn đề quyền con người, như Trung Quốc, Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a, Mi-an-ma,... Nhưng bằng nhiều biện pháp, những nước này đã dần vượt được qua các sức ép, khiến các nước thường chỉ trích họ như Mỹ và EU cũng phải nhượng bộ, giảm bớt sức ép đối với họ. Kinh nghiệm của họ là: từng bước tham gia các công ước quốc tế và khu vực cũng như những diễn đàn quốc tế về quyền con người; sửa đổi Hiến pháp, pháp luật, cam kết bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, đồng thời cải thiện trên thực tế tình trạng quyền con người trong nước; vừa đối thoại, vừa đấu tranh với những sức ép từ bên ngoài; phát triển kinh tế thị trường, mở cửa cho đầu tư nước ngoài, là điểm đến có lợi cho các đối tác khắp nơi trên thế giới.

Từ khi thực hiện đổi mới, đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu trong phát triển mọi mặt, từ chính trị tới kinh tế, xã hội, văn hóa. Đặc biệt, từ sau Đại hội VIII của Đảng (năm 1996), thực hiện chủ trương “tích cực, chủ động hội nhập quốc tế”, nước ta càng có những bước tiến nhanh trong việc cải thiện quyền con người.

Với chủ trương đổi mới đúng đắn, nhất là trong phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, đất nước đã có bước tiến đáng kể trong cải thiện điều kiện, mức sống của người dân. Bằng nội lực và sự giúp đỡ, cộng tác với Liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ trên thế giới, Việt Nam đã có bước tiến nhanh chóng trong xóa đói, giảm nghèo, trở thành nước điển hình thành công, được thế giới thừa nhận. Sau 20 năm, tỷ lệ người nghèo đã giảm từ trên 60% xuống còn dưới 10%; nâng mức thu nhập bình quân lên khoảng 1.540 USD/người vào năm 2012 và bước vào ngưỡng các nước thu nhập trung bình. Vấn đề an sinh xã hội, bảo đảm chăm sóc sức khỏe, giáo dục,... được cải thiện đáng kể.

Hội nhập tích cực, chủ động với thế giới, nước ta đã thực hiện nhiều đổi mới, hoàn thiện thể chế chính trị, hệ thống luật pháp. Đặc biệt, trong hệ thống luật pháp, đã sửa đổi Luật Đầu tư, Luật Công ty, các quy định pháp luật về xuất cảnh, quốc tịch, nhận con nuôi theo tinh thần cởi mở, thông thoáng; ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, Luật Báo chí, Luật Xuất bản,... Do vậy, trên thực tế, các quyền dân sự, chính trị của người dân, bao hàm các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền tự do đi lại, quyền tham gia đời sống chính trị, quyền của người dân tộc thiểu số, của nhóm yếu thế trong xã hội,... được nhận thức, tôn trọng và được bảo đảm tốt hơn. Những thành tựu đó được người dân trong nước và thế giới ghi nhận, đánh giá cao.

Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng, một mặt, chúng ta cần nhìn nhận rõ những thành tựu và hạn chế trong việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người; mặt khác, phải làm cho thế giới hiểu rõ những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực này, đồng thời đấu tranh với những xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch trong nước và nước ngoài.

Chúng ta cũng cần nhìn nhận rõ những thuận lợi và khó khăn, thách thức trên con đường phát triển hơn nữa quyền con người của đất nước. Thuận lợi rõ nhất là sự phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta, nhận thức của các tầng lớp nhân dân về tầm quan trọng, ý nghĩa của vấn đề quyền con người đã được nâng lên rõ rệt. Những thể chế pháp lý của nhà nước pháp quyền đã được hình thành và ngày càng hoàn thiện, tạo khuôn khổ để bảo đảm trên thực tế các quyền con người. Thể chế kinh tế thị trường cũng đã hình thành và từng bước hoàn thiện, tạo điều kiện để bảo đảm quyền tự do sở hữu và kinh doanh của cá nhân. Điều kiện tiếp cận với các nguồn thông tin của người dân ngày càng thuận lợi hơn. Việt Nam được xếp thứ hai ở châu Á về tăng trưởng viễn thông và số người sử dụng in-tơ-nét.

Thuận lợi còn là thái độ hiểu biết, thiện chí và những quan hệ thiết thực được xây dựng giữa các tổ chức quốc tế với Chính phủ Việt Nam và các cấp chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ thể chế, kinh nghiệm, tài chính trong phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, mở rộng dân chủ ở nước ta (chỉ riêng Ngân hàng Thế giới trong vòng 20 năm qua đã hỗ trợ cho Việt Nam 17 tỷ USD để thực hiện các chương trình phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói, giảm nghèo,...).

Song, khó khăn và thách thức vẫn còn nhiều, như nhận thức về quyền con người của một số tổ chức chính quyền từ Trung ương đến địa phương và người dân chưa theo kịp sự tiến bộ của quyền con người; mức độ hoàn thiện thể chế pháp lý còn có hạn; còn nhiều điều về mặt pháp lý cần phải được nghiên cứu và quy định rõ ràng hơn; trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn có những hạn chế, trong đó có những chính sách phát triển chưa hợp lý, trình độ quản lý còn kém, ảnh hưởng tới sự ổn định và tăng trưởng kinh tế và cải thiện an sinh xã hội, đời sống của người dân nông thôn và miền núi còn gặp nhiều khó khăn… Tất cả những điều này không thể khắc phục ngay trong một tháng, một năm, mà có khi phải bằng cả thập niên. Việt Nam là quốc gia mới bước vào ngưỡng của nước thu nhập trung bình và cũng là nước có số lượng người khuyết tật cao (khoảng 6% dân số), trong đó phần lớn là do hậu quả chiến tranh (bom, mìn và chất độc hóa học). Do vậy, dù đã được cải thiện nhưng chỉ số phát triển con người của Việt Nam vẫn đứng vào nhóm trung bình của thế giới.

Khó khăn còn xuất phát từ sự thiếu thiện chí của một số thế lực. Hằng năm, Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn công bố báo cáo nhân quyền ở các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, với thái độ thiếu thiện chí và xuyên tạc sự thật. Năm 2012, Ủy ban Đối ngoại của Hạ viện Mỹ đã thông qua Luật 1869 về nhân quyền ở Việt Nam với nhiều thông tin và nhận xét sai lệch, thậm chí xuyên tạc đối với những vụ, việc xảy ra, chẳng hạn, thổi phồng, bóp méo những vụ xét xử tội phạm hình sự thông thường thành những vụ đàn áp tôn giáo, đàn áp tự do báo chí, ngôn luận,... Điều này gián tiếp gây khó khăn cho các cấp chính quyền tại các địa phương, nhất là những nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, và trực tiếp ảnh hưởng tới cuộc sống bình yên của người dân tại các địa phương đó, làm xấu hình ảnh của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.

Trong thực tế, việc vi phạm quyền con người còn xuất phát từ chính các cá nhân mà không phải nhà nước nào cũng luôn có thể kiểm soát và bảo vệ kịp thời, ngay cả với chính phủ ở các nước tự coi là mẫu mực về thực hiện quyền con người (ví dụ, các vụ khủng bố ở nhà ga, siêu thị, hoặc xả súng tại các trường học, nơi công cộng, giết hại hàng chục, hàng trăm người ở Anh, Mỹ trong những năm gần đây). Ở nước ta không phải không còn những cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước chưa có nhận thức đúng đắn về vấn đề quyền con người, chưa có hiểu biết cần thiết về nghĩa vụ bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, trong việc xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật và chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước về vấn đề quyền con người, quyền công dân. Đó còn là tình trạng quan liêu, tham nhũng, vi phạm quyền dân chủ và những quyền chính đáng khác của người dân, ảnh hưởng xấu tới hình ảnh, uy tín của Đảng và Nhà nước ta. Đây là những nguyên nhân chủ quan góp vào những khuyết điểm, hạn chế không đáng có.

Tuy nhiên, trong giải quyết vấn đề quyền con người, so sánh giữa khó khăn và thuận lợi, giữa cơ hội và thách thức thì thuận lợi và cơ hội vẫn là cơ bản. Điều quyết định những tiến bộ tiếp theo là quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta.

Về quan điểm, Đảng và Nhà nước ta đã xác định phấn đấu cho độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu cao nhất của chế độ ta. Đó cũng chính là nhằm thực hiện quyền con người. Trong gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước ta (rõ nhất là trong Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung vào năm 2013) đã khẳng định: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền con người, quyền công dân được tôn trọng và bảo vệ.

Lý luận và thực tiễn về vấn đề quyền con người cho thấy, có ba cấp độ mà các nhà nước cần tuân theo trong giải quyết vấn đề quyền con người. Với bản chất xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta càng phải giải quyết tốt vấn đề quyền con người theo những cấp độ này:

Một là, tôn trọng, bảo vệ quyền con người, trước hết là các quyền dân sự, là nghĩa vụ bắt buộc của chính quyền. Đây là những quyền mang tính phổ biến tuyệt đối, tối thiểu, mà việc thực hiện không lệ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế, sự khác biệt văn hóa.

Hai là, trên cơ sở và phù hợp với các điều kiện khách quan của đất nước, bảo đảm trong thực tế các quyền con người, nghĩa là bảo đảm mỗi người đều có cơ hội thỏa mãn các quyền con người theo luật định, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa. Một số quyền chính trị (như quyền dân chủ, quyền tự do ngôn luận,...) cũng nằm trong nhóm này. Đây là các quyền phổ biến mang tính tương đối, cần có điều kiện để thực hiện và thỏa mãn.

Ba là, không ngừng thúc đẩy quyền con người, nghĩa là nhận thức và biến các nhu cầu chính đáng của con người trong bối cảnh toàn cầu hóa và bùng nổ thông tin thành quyền của con người (ví dụ, quyền được sống trong môi trường trong lành, quyền được thông tin và thông tin), thỏa mãn các quyền con người cả về kinh tế, xã hội, văn hóa và dân sự, chính trị với chất lượng ngày càng cao hơn.

Đó cũng chính là phương châm hành động cần thiết của Nhà nước ta trong giải quyết vấn đề quyền con người.

Từ những thành công, hạn chế và tham khảo kinh nghiệm các nước đang phát triển, phương hướng và giải pháp trong giải quyết vấn đề quyền con người trong điều kiện đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng ở nước ta là: 

1- Chủ động, tích cực tham gia các công ước và diễn đàn quốc tế về quyền con người trong phạm vi toàn cầu và khu vực.

Ngoài hai công ước lớn là Công ước về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội và Công ước về quyền dân sự, chính trị, thế giới coi 7 công ước sau hợp thành “cốt lõi” của quyền con người: Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (thông qua năm 1966 có hiệu lực năm 1969); Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt với phụ nữ (thông qua năm 1979, có hiệu lực năm 1981); Công ước về chống tra tấn (thông qua năm 1984, có hiệu lực năm 1984); Công ước về quyền trẻ em (thông qua năm 1989, có hiệu lực năm 1989); Công ước về quyền của người khuyết tật (thông qua năm 2006, có hiệu lực năm 2008); Công ước về bảo vệ quyền của lao động di cư và gia đình họ (thông qua năm 1990, có hiệu lực năm 2003). Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước này. Ngày 7-11-2013, nước ta chính thức là thành viên của Công ước về chống tra tấn.

Trong điều kiện của hội nhập quốc tế, nước ta có số lượng lao động di cư đông và ngược lại, có số lượng lao động nhập cư ngày càng lớn, do vậy, đã đến lúc chúng ta nên tham gia Công ước về bảo vệ quyền của lao động di cư và gia đình họ. Cũng đã đến lúc Việt Nam cần xây dựng báo cáo hằng năm về thực hiện quyền con người cho Liên hợp quốc, hoặc ít nhất là công bố “Sách trắng” hằng năm về vấn đề này (Trung Quốc gần đây đã sử dụng hình thức này). Đây là hình thức công khai, minh bạch hóa những thành tựu cũng như những hạn chế cùng nguyên nhân khách quan và chủ quan với tinh thần cầu thị trong giải quyết vấn đề quyền con người.

2- Tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp lý theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Trong việc hoàn thiện thể chế pháp lý theo mục tiêu này, điều khó khăn là thể chế hóa mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, cộng đồng, giữa quyền và nghĩa vụ của cá nhân. Những mối quan hệ này gắn bó, ràng buộc nhau, không hề mâu thuẫn nhau. Tuy nhiên, trong xã hội ta ta hiện nay, về quyền cá nhân và tập thể, cộng đồng, một mặt, vừa có biểu hiện chưa được bảo đảm đầy đủ quyền của cá nhân, vừa có biểu hiện tự do quá trớn, vi phạm quyền của cá nhân khác, của tập thể, cộng đồng (ví dụ, lợi dụng việc sử dụng in-tơ-nét để bôi nhọ, vu cáo người khác); mặt khác, trong ý thức, văn hóa, mặc dù tập thể, cộng đồng được đề cao, ưu tiên trước cá nhân, song trong thực tế, quyền của tập thể, cộng đồng ở nhiều nơi lại không được bảo đảm, để cho một số ít cá nhân lạm dụng, lợi dụng (ví dụ, lợi dụng sở hữu công cộng về đất đai, tài nguyên quốc gia để lấn chiếm, tham nhũng,...).

Vấn đề khó khăn khác trong việc thể chế hóa về chính sách và pháp luật là xử lý mối quan hệ giữa nguyên tắc phổ biến của quyền con người và điều kiện khách quan về trình độ phát triển kinh tế, xã hội. Việc thỏa mãn quyền con người, đặc biệt là các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội, không thể vượt quá điều kiện khách quan. Sau sự thất bại của cơ chế bao cấp, chúng ta đã nhận thức rõ và thay đổi quan điểm, phương thức, chuyển từ việc Nhà nước là người cung cấp, bảo đảm trực tiếp cho mỗi người được hưởng thụ những nhu cầu vật chất sang Nhà nước là người bảo đảm cơ hội để mỗi người tự hưởng thụ những nhu cầu đó. Ví dụ, quyền có nhà ở, quyền có việc làm, quyền được học tập,... không thể được giải quyết theo phương thức bao cấp như trước kia, mà phải trên cơ sở vận động của mỗi người trong cơ chế thị trường mà Nhà nước là người bảo đảm điều kiện pháp lý cho việc thực hiện đó.

Để phục vụ và tạo điều kiện cho việc hội nhập quốc tế của đất nước, đồng thời đáp ứng yêu cầu của thể chế pháp lý quốc tế, việc hoàn thiện thể chế pháp lý trong nước của Việt Nam cần được triển khai trên các hướng sau:

Về các quyền dân sự - chính trị: Trọng tâm là hoàn thiện thể chế dân chủ, nhằm bảo đảm quyền của người dân trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia xây dựng và kiểm soát Nhà nước, quyền được bày tỏ chính kiến, lập hội, quyền tự do tôn giáo, quyền sở hữu trí tuệ.

Tự do tôn giáo là vấn đề lớn ở các nước. Ở nước ta, đây là vấn đề dễ bị các thế lực xấu lợi dụng vì mục đích chính trị. Hiến pháp nước ta đã cụ thể hóa quan điểm tự do tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Một mặt, chúng ta khẳng định nguyên tắc thế tục của Nhà nước, nghĩa là không để tôn giáo can thiệp công việc của Nhà nước; Nhà nước đối xử công bằng, bình đẳng đối với các tôn giáo, chống mọi biểu hiện lợi dụng quyền tự do tôn giáo chống phá Nhà nước, gây mất trật tự, an ninh quốc gia. Mặt khác, thừa nhận quyền của cá nhân về tôn giáo theo tinh thần “Mọi người có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo, kể cả quyền thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng, quyền được tự mình hay cùng với người khác ở nơi công cộng hay tư nhân, thể hiện tôn giáo và tín ngưỡng của mình, rao giảng, thực hành, thờ cúng hay kỷ niệm” (Điều 18 Công ước về các quyền dân sự và chính trị).

Trong thời đại thông tin và căn cứ vào thực tế phát triển công nghệ thông tin ở nước ta hiện nay, chúng ta cần thiết lập khuôn khổ pháp lý để bảo đảm quyền tiếp cận in-tơ-nét của người này không vi phạm quyền của người khác và bảo đảm an ninh, an toàn xã hội (Phần Lan từ năm 2009 đã coi tiếp cận in-tơ-nét là một quyền con người và buộc các công ty cung cấp dịch vụ này phải bảo đảm giá cả hợp lý và tốc độ truyền dẫn nhất định. Còn theo một cuộc trưng cầu ý kiến tại Anh, 79% người trưởng thành được hỏi đồng ý đây là một quyền con người).

Về các quyền kinh tế: Trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền sở hữu, kinh doanh của người dân một cách công bằng, không bị phân biệt đối xử. Đó là những quy định pháp lý liên quan tới bình đẳng trong tiếp cận vốn, đất đai, tài nguyên và các dịch vụ công khác.

Liên quan tới quyền và nghĩa vụ kinh tế của cá nhân đối với xã hội và Nhà nước, có thể thấy, đã đến lúc Nhà nước phải xây dựng và tuân thủ quy định về nghĩa vụ giải trình của Nhà nước về sử dụng tài nguyên, ngân sách quốc gia, vì đó chính là sự đóng góp của người dân và người dân có quyền được giám sát về việc này.

Về các quyền văn hóa, xã hội: Trọng tâm là hoàn thiện chế độ an sinh xã hội (đặc biệt là chế độ bảo hiểm xã hội, cứu trợ và chăm sóc các đối tượng chính sách và có hoàn cảnh khó khăn, bất lợi); hoàn thiện chế độ giáo dục, hệ thống chăm sóc sức khỏe và bảo hiểm y tế cho người dân.

Quyền sinh đẻ, di cư là những vấn đề rất đáng được thể chế hóa để vừa bảo đảm quyền cá nhân, vừa bảo đảm lợi ích chung của xã hội, không vì mặt này mà ảnh hưởng đến mặt kia. Thực tế vừa qua cho thấy, chúng ta chưa giải quyết tốt mối quan hệ này. Ví dụ, đã thừa nhận quyền tự do cư trú, do đó cho phép di cư tự do vào các thành phố lớn, nhưng không gắn giữa quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của người cư trú nên trong thời gian ngắn, lượng người tập trung vào các thành phố lớn, như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, tăng nhanh, vượt quá khả năng bảo đảm của các thành phố, ảnh hưởng đến an ninh, an toàn đô thị.

3- Tăng cường pháp chế trong bảo vệ quyền con người.

Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường nhưng còn ở mức độ sơ khai, có tình trạng suy thoái văn hóa, các vụ xâm phạm quyền con người từ phía cá nhân có xu hướng tăng về số lượng và mức độ nghiêm trọng. Hiện tượng các tổ chức tư nhân và công cộng có những hành vi xâm phạm quyền con người với các mức độ khác nhau, như xả, thải chất độc hại ra môi trường; sản xuất hàng hóa không bảo đảm vệ sinh, an toàn; tệ quan liêu, thiếu trách nhiệm trong cung ứng dịch vụ công,... có xu hướng ngày càng trở nên phổ biến. Rõ ràng, cần phải hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan, đồng thời phải xử lý nghiêm các vi phạm này. Đó chính là biểu hiện của việc Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền con người, đồng thời bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Trong đời sống xã hội ta hiện nay, quyền sở hữu trí tuệ chưa được bảo vệ đúng mức. Điều này không những gây thiệt hại cho chính công dân Việt Nam, mà còn gây nên những bất lợi không đáng có trên phương diện pháp lý quốc tế. Bảo vệ quyền này phụ thuộc vào nhận thức, sự tôn trọng và nghiêm khắc của pháp luật.

4- Tăng cường hợp tác quốc tế, sẵn sàng đối thoại về quyền con người, đồng thời đấu tranh với những đòi hỏi và luận điệu phi lý từ bên ngoài.

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã có một bước tiến bộ lớn, đó là thông qua “Hiến chương ASEAN” (năm 2007) và “Tuyên ngôn nhân quyền ASEAN” (năm 2012) phù hợp với đặc điểm của các nước trong khu vực. Là một nước thành viên của ASEAN và Liên hợp quốc, Việt Nam có thể và nên luân phiên đăng cai tổ chức các diễn đàn trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ quan điểm về lĩnh vực quyền con người, nhất là trong những chủ đề cụ thể, như ngăn chặn buôn bán phụ nữ, trẻ em; ngăn chặn sử dụng lao động trẻ em; ngăn chặn các tà đạo trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc;...

Các đối tượng đáng được lưu tâm hàng đầu và đối thoại định kỳ là Chính phủ và Nghị viện Mỹ, các tổ chức quốc tế, như “Tổ chức ân xá quốc tế”, “Tổ chức theo dõi quyền con người”, Tòa thánh Va-ti-căng,...

5- Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, lấy sức mạnh kinh tế làm nền tảng lâu dài cải thiện quyền con người, đồng thời làm sức hút với quốc tế và ngăn cản các thế lực muốn lợi dụng vấn đề quyền con người để can thiệp vào nước ta.

Suy cho cùng, việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con người, nhất là các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của đất nước. Do vậy, phải phấn đấu có tăng trưởng kinh tế và thu nhập bình quân trên đầu người ngày càng cao trên cơ sở thực hiện mô hình phát triển bền vững. Sự nghèo nàn của đất nước sẽ làm vô hiệu hóa mọi sự ưu tiên của Nhà nước, mọi khẩu hiệu dù là nhân đạo, tốt đẹp nhất.

Mặt khác, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, lợi ích kinh tế là sức hút quan trọng nhất, đồng thời cũng là sự ngăn cản vô hình, nhưng hữu hiệu đối với mọi chỉ trích, tấn công của các thế lực thiếu thiện chí với nước ta. Chúng ta có thể mở rộng quan hệ kinh tế về thương mại và đầu tư với nước ngoài, tạo điều kiện cho các công ty nước ngoài có những lợi ích kinh tế xứng đáng trong buôn bán, đầu tư tại Việt Nam. Vấn đề là lựa chọn những lĩnh vực nào có lợi cho cả đôi bên. Điều này phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế của đất nước và việc cải thiện luật pháp về đầu tư, thương mại./.