Công nhân nữ ngoại tỉnh trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội
Dây chuyền làm sạch sản phẩm trước khi vào chế biến - Ảnh: Trọng Chính |
TCCS - Quá trình hội nhập kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và dân chủ hóa đời sống xã hội là điều kiện và động lực quan trọng tác động đến sự di cư của người lao động nông thôn ra thành thị. Thu nhập từ sản xuất nông nghiệp thấp và tâm lý muốn thoát ly khỏi lao động nông nghiệp vất vả là tác nhân cuốn hút người lao động nông thôn ra thành thị, trong số đó có nhiều lao động nữ.
Việc làm và đời sống của nữ công nhân ngoại tỉnh
Phần lớn (83%) nhận được mức lương từ 1 - 1,5 triệu đồng/tháng. Với thu nhập như vậy công nhân nữ ngoại tỉnh gặp nhiều khó khăn vì họ phải trả tiền thuê nhà, điện, nước và tiền ăn, nhất là trong bối cảnh "bão giá" hiện nay. Thực tế cho thấy, công nhân nữ ngoại tỉnh hiện đang sống trong những điều kiện hết sức kham khổ. Thu nhập thấp không chỉ làm cho công nhân nữ ngoại tỉnh khó khăn về cuộc sống vật chất mà còn ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của họ.
Hầu hết lao động nữ ngoại tỉnh đang làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội là phụ nữ trẻ, chưa lập gia đình, nhưng họ ít có thời gian, môi trường xã hội thuận lợi để tìm hiểu và làm quen với các bạn trai. Lao động trong các doanh nghiệp này chủ yếu là nữ nên cơ hội kết bạn với người khác giới của họ rất hạn chế. Những công nhân nữ có bạn trai cũng gặp nhiều thách thức trong điều kiện sống xa nhà. Một số nghiên cứu cho thấy, có nhiều nam nữ sống chung và có quan hệ tình dục trước hôn nhân. Nhiều trường hợp không đi tới hôn nhân, để lại những hậu quả nặng nề mà do các áp lực xã hội và định kiến về giới, phụ nữ bao giờ cũng bị thiệt thòi.
Những khó khăn của công nhân nữ ngoại tỉnh trong cuộc sống gia đình sau khi kết hôn có thể nói là chồng chất, liên quan đến mang thai, sinh đẻ, chăm sóc con nhỏ và gia đình. Điều kiện sinh hoạt kham khổ thiếu thốn, ít được tiếp cận với các dịch vụ xã hội, con cái không được nuôi dưỡng và giáo dục chu đáo (do nhiều công nhân phải gửi con về quê nhờ ông bà trông giúp) là "chân dung" cuộc sống sau kết hôn của nhiều người lao động ngoại tỉnh. Dù rơi vào hoàn cảnh nào, không tìm được bạn đời, hay có cơ hội xây dựng gia đình và lập nghiệp tại Hà Nội, cuộc sống của công nhân nữ ngoại tỉnh cũng sẽ không dễ dàng và tiềm ẩn những yếu tố rủi ro đối với hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc và sự bền vững của gia đình họ thực sự mong manh.
Một số vấn đề đặt ra và hướng giải quyết
Hai là, sự khác biệt về giới đang tạo ra nhiều thiệt thòi cho công nhân nữ trong các doanh nghiệp liên doanh tại Hà Nội. Sự khác biệt giới ở đây bao hàm sự khác biệt giữa công nhân nam và công nhân nữ, sự khác biệt giữa công nhân nữ ngoại tỉnh với công nhân nam ngoại tỉnh và công nhân nữ có hộ khẩu ở Hà Nội trên một số khía cạnh như loại hình, tính chất công việc, thu nhập và một số vấn đề xã hội khác. Hiện tượng nữ hóa trong lao động công nghiệp, nhất là trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các ngành sản xuất giày da, chế biến thủy sản, dệt may... tương đối rõ nét. Điều này gây ra nhiều vấn đề cả về nhân lực cho công nghiệp và cả về vấn đề con người dưới góc độ hôn nhân, gia đình. Đặc thù tổ chức công nghiệp hình thành nên đặc trưng xã hội mà nét tiêu biểu là tính "nữ hóa" của một không gian xã hội tạo nên một trạng thái mất cân bằng về giới, tuy cục bộ song rất nghiêm trọng. Thiếu đối tác nam để công nhân nữ tìm hiểu và xây dựng gia đình đang là một vấn đề lớn về giới của loại doanh nghiệp này.
Có sự khác biệt khá rõ nét giữa công nhân nữ ngoại tỉnh và công nhân nữ ở Hà Nội và cư dân đô thị về điều kiện sống và làm việc. Có thể nói, cuộc sống của công nhân nữ ngoại tỉnh đang phải chịu những yếu tố tác động không chỉ bởi họ là phụ nữ, mà còn vì họ là người ngoại tỉnh. Những khó khăn của họ bao gồm điều kiện sống thiếu thốn, đời sống tinh thần nghèo nàn, giao lưu và tiếp cận với các dịch vụ xã hội còn rất hạn chế do không có hộ khẩu tại Hà Nội. Đối với nhiều lao động công nghiệp di cư từ nông thôn tới các khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ là nơi họ bị vắt kiệt sức lao động. Nguy cơ xuất hiện vấn đề xã hội tiềm ẩn từ những áp lực lao động và môi trường sống bất cập hôm nay.
Ba là, môi trường xã hội và hạ tầng dịch vụ xã hội trong khu công nghiệp và khu chế xuất chưa tạo điều kiện thuận lợi cho công nhân nữ. Quan niệm về khu công nghiệp như một khu biệt lập thuần túy sản xuất, không có cơ sở hạ tầng xã hội là nguyên nhân đầu tiên khiến cho hầu hết các khu công nghiệp mọc lên với sự thiếu thốn về các hạ tầng dịch vụ xã hội. Cuộc sống của công nhân nữ trong các doanh nghiệp thời gian qua đã diễn ra trong điều kiện sống thiếu thốn, môi trường và an toàn xã hội không bảo đảm. Có thể nói, cung và cầu nhà ở cho công nhân ở các khu công nghiệp mất cân đối nghiêm trọng. Chưa có chiến lược, quyết sách trong việc xây dựng môi trường xã hội, dịch vụ hạ tầng xã hội trong khu công nghiệp là hạn chế nổi bật trong tư duy, trong hoạch định và hành động của nhiều cấp chính quyền tại nơi có các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Bốn là, nhận thức của công nhân nữ ngoại tỉnh về quyền pháp lý của người lao động cần được nâng cao. Nhìn chung, lao động ngoại tỉnh, nhất là lao động nữ thiếu hiểu biết về pháp luật lao động có ít mối quan hệ xã hội và gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về chính sách. Công nhân nữ được phỏng vấn thể hiện sự không hiểu rõ về Bộ Luật Lao động, Luật Doanh nghiệp, không quan tâm đến pháp luật lao động. Chính điều này làm cho người lao động thụ động trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Người lao động khi được tuyển dụng không cân nhắc, thỏa thuận với chủ sử dụng lao động về nội dung các điều khoản của hợp đồng lao động. Trong khi đó, hợp đồng lao động là căn cứ duy nhất để bảo vệ quyền lợi hợp pháp. Do vậy, khi xảy ra tranh chấp lao động, người lao động thường bị thua thiệt.
Cần chú trọng nhiều hơn nữa đến lao động nữ ngoại tỉnh làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội đang có nhiều nguy cơ bị mất các quyền lợi chính đáng của họ. Việc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân nữ và hoàn thiện môi trường xã hội trong các khu công nghiệp phải bắt đầu từ chính sách xây dựng hạ tầng dịch vụ xã hội cho các khu này. Hoạt động của tổ chức công đoàn, ban nữ công trong nhiều doanh nghiệp cần phải đổi mới để bảo vệ một cách hiệu quả quyền và lợi ích của lao động nữ. Đồng thời, cần có những giải pháp để nâng cao ý thức, trách nhiệm, sự hiểu biết về pháp luật từ phía lao động nữ. Các giải pháp đồng bộ từ phía Nhà nước, doanh nghiệp và lao động nữ có thể tạo ra nền tảng vững chắc, bảo đảm cuộc sống của công nhân nói chung và công nhân nữ ngoại tỉnh nói riêng, góp phần phát triển lực lượng lao động này./.
Phụ nữ và quyền chủ động trong cuộc sống  (03/04/2009)
Phát hành 2.000 tỉ đồng trái phiếu Chính phủ  (03/04/2009)
1.898 thí sinh đoạt giải học sinh giỏi quốc gia 2009  (03/04/2009)
Chính sách mới để phát triển nhà ở xã hội  (02/04/2009)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên