Vĩnh Phúc: Phát triển công nghiệp làm nền tảng, tạo bước chuyển mạnh mẽ cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
TCCS - Với quan điểm lấy phát triển công nghiệp làm nền tảng, sau gần 22 năm tái lập tỉnh, từ chỗ quy mô nền kinh tế nhỏ bé, chủ yếu dựa vào nông nghiệp, mức sống của người dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, phải nhận hỗ trợ từ ngân sách trung ương, tỉnh Vĩnh Phúc đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, từng bước khẳng định, nâng cao vị thế so với các tỉnh, thành phố trong vùng và cả nước.
Lấy phát triển công nghiệp làm nền tảng
Nhận rõ những bất lợi, hạn chế của mình khi được tái lập tỉnh, Vĩnh Phúc đã sớm xác định phương châm phát triển kinh tế là lấy phát triển công nghiệp làm nền tảng, phát triển dịch vụ du lịch là mũi nhọn và coi nông nghiệp và phát triển nông thôn là nhiệm vụ quan trọng. Để biến phương châm thành hiện thực, tạo những bước chuyển mạnh mẽ trong phát triển kinh tế - xã hội, nhiều nghị quyết, chương trình, cơ chế, chính sách của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc được ban hành trong suốt gần 22 năm qua, phù hợp với bối cảnh, điều kiện thực tiễn của từng giai đoạn cụ thể.
Giai đoạn 1997 - 2000, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XII đề ra phương hướng “Tập trung mọi nguồn lực tạo điều kiện khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn. Hướng chủ yếu là phát triển mạnh công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài...”. Trong giai đoạn này, tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện chính sách “trải thảm đỏ” và “đi tắt đón đầu”, tập trung ưu tiên các nguồn lực để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng Khu công nghiệp Kim Hoa, Cụm công nghiệp Khai Quang và Cụm công nghiệp Quang Minh nhằm tạo quỹ đất thuận lợi về vị trí địa lý để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nên đã thu hút được một số dự án quan trọng, làm tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh sau này...
Giai đoạn 2001 - 2005, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XIII và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2005 xác định “Đẩy mạnh tiến độ quy hoạch, phát triển các khu công nghiệp tập trung, trong đó đẩy mạnh quy hoạch, thu hút đầu tư nước ngoài, giải phóng mặt bằng là những ưu tiên hàng đầu”. Vĩnh Phúc có những chính sách hỗ trợ kinh phí đầu tư cho các chủ dự án hạ tầng xây dựng hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng Khu công nghiệp Quang Minh, Khu công nghiệp Khai Quang, tạo ra bước ngoặt trong việc thu hút các dự án trong lĩnh vực công nghiệp cơ khí chế tạo, điện - điện tử, sản xuất linh kiện ô-tô, xe máy.
Giai đoạn 2006 - 2010, Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XIV xác định “tập trung phát triển công nghiệp và coi công nghiệp làm nền tảng của nền kinh tế nhằm tạo ra sự tăng trưởng cao, giải quyết việc làm cho nhiều lao động, tăng thu cho ngân sách nhà nước và kích thích các ngành dịch vụ, nông nghiệp phát triển, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trên địa bàn”. Vĩnh Phúc đã dành nhiều nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống kết cấu hạ tầng ngoài các khu, cụm công nghiệp và môi trường đầu tư hấp dẫn, nên đã thu hút được lượng FDI lớn nhất kể từ khi tái lập tỉnh, chủ yếu tập trung trong lĩnh vực điện tử, công nghiệp hỗ trợ cho sản xuất linh kiện điện tử.
Giai đoạn từ 2011 - 2015, Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XV xác định: Phấn đấu đến năm 2015, cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp; trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và trở thành thành phố Vĩnh Phúc vào những năm 20 của thế kỷ XXI. Chính sách của tỉnh là tập trung thu hút các dự án FDI sử dụng công nghệ sạch, giá trị gia tăng lớn, tiết kiệm đất, hướng tới các dự án sử dụng công nghệ cao, các dự án công nghiệp hỗ trợ, đẩy mạnh thu hút các dự án trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ nhằm hiện đại hóa nền kinh tế, tạo ra sự phát triển bền vững.
Giai đoạn 2016 - 2020, Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XVI xác định “Phấn đấu xây dựng Vĩnh Phúc trở thành một trong những trung tâm công nghiệp, du lịch của vùng và cả nước, cơ bản hoàn thành khung đô thị tiến tới trở thành thành phố Vĩnh Phúc vào những năm 20 của thế kỷ XXI”. Chính sách của tỉnh tập trung thu hút dự án đầu tư vào các khu công nghiệp hiện có; ưu tiên các dự án có quy mô lớn, công nghệ cao. Chủ động quỹ đất để xây dựng các khu công nghiệp mới theo yêu cầu của thị trường, phù hợp quy hoạch được duyệt. Từng bước thành lập mới và xây dựng đồng bộ hạ tầng kỹ thuật các khu công nghiệp Thăng Long Vĩnh Phúc, Tam Dương II, Sông Lô 1, Chấn Hưng,... để tạo quỹ đất phát triển công nghiệp.
Trong giai đoạn này, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề về thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh, như Nghị quyết số 01-NQ/TU, ngày 01-9-2016, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về một số giải pháp cơ bản cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2016 - 2021; Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 01-9-2016, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về khuyến khích đầu tư các dự án dịch vụ chất lượng cao tại các vùng khó chuyển đổi cơ cấu kinh tế giai đoạn 2016 - 2021; Nghị quyết số 57/2016/NQ-HĐND, ngày 12-12-2016, của Hội đồng nhân dân tỉnh về một số biện pháp đặc thù thu hút đầu tư và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc...
Có thể khẳng định rằng, sau gần 22 năm tái lập, với nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi đột phá cho đầu tư phát triển công nghiệp, tỉnh Vĩnh Phúc đã đề ra được những giải pháp hết sức quan trọng, trong đó giải pháp tạo môi trường đầu tư thuận lợi, từ công tác tập trung lập quy hoạch, chủ động về quỹ đất, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông, xây dựng các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư cùng với đó là cải cách thủ tục hành chính là khâu đột phá. Với phương châm “Tất cả các nhà đầu tư đến Vĩnh Phúc đều là công dân của Vĩnh Phúc”, tỉnh Vĩnh Phúc xác định doanh nghiệp là động lực phát triển, là đối tượng để phát triển chính. Vì vậy, tỉnh luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp phát triển. Các doanh nghiệp đều được bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực đất đai, kết cấu hạ tầng, cấp điện, nước, ưu đãi thuế, đào tạo nghề và tuyển dụng lao động, tiếp cận vốn thông tin liên lạc. Với những nỗ lực đó, chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm qua luôn ở tốp đầu của 63 tỉnh, thành phố trên cả nước. Vĩnh Phúc đang phấn đấu đến năm 2020, cơ bản thành tỉnh công nghiệp và hoàn thành khung đô thị cho thành phố Vĩnh Phúc trong tương lai, đưa Vĩnh Phúc trở thành một trong những trung tâm công nghiệp, dịch vụ du lịch của khu vực và cả nước để cấu trúc lại nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững.
Những kết quả nổi bật
Nhờ có nhiều nghị quyết, chương trình, cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp phù hợp, ưu đãi, táo bạo,... trong gần 22 năm qua, tỉnh Vĩnh Phúc đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật đáng ghi nhận. Đến ngày 30-6-2018, tỉnh Vĩnh Phúc đã thu hút được 1.004 dự án, trong đó 706 dự án đầu tư trực tiếp trong nước (DDI) với tổng vốn đầu tư 69.142 tỷ đồng và 298 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký 4,13 tỷ USD, với trên 90% số dự án FDI đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp. Đã có nhiều nhà đầu tư lớn đến từ 16 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư và thành công tại Vĩnh Phúc, đứng đầu là Hàn Quốc (với 157 dự án), thứ hai là Nhật Bản (35 dự án)... Cùng với các nhà đầu tư ở châu Á, tỉnh Vĩnh Phúc đã có nhiều nhà đầu tư đến từ châu Âu và các châu lục khác.
Tỉnh Vĩnh Phúc đã được Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt quy hoạch đến năm 2020 sẽ có 18 khu công nghiệp với diện tích hơn 5.700ha. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã phê duyệt quy hoạch đến năm 2020 dự kiến thành lập 21 cụm công nghiệp với tổng diện tích 446,84ha và đến năm 2030 sẽ thành lập 31 cụm công nghiệp với diện tích 659,23ha. Trên cơ sở quy hoạch các khu công nghiệp được duyệt, tỉnh Vĩnh Phúc đã thu hút được nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp và các dự án sản xuất công nghiệp, điển hình như dự án hạ tầng kỹ thuật Khu công nghiệp Khai Quang, Khu công nghiệp Phúc Thắng - Kim Hoa, Khu công nghiệp Bình Xuyên II, Bá Thiện, Bá Thiện II, Khu công nghiệp Bình Xuyên và Khu công nghiệp Thăng Long Vĩnh Phúc. Đã có 11/18 khu công nghiệp có chủ đầu tư hạ tầng, trong đó có 8 khu công nghiệp đi vào hoạt động với hạ tầng kỹ thuật dần được hoàn thiện đồng bộ, đáp ứng nhu cầu mặt bằng sản xuất, kinh doanh của các nhà đầu tư. Bên cạnh đầu tư nước ngoài, tỉnh Vĩnh Phúc đã thu hút được nhiều nhà đầu tư đến từ nhiều tỉnh, thành phố trong nước, góp phần thúc đẩy sản xuất công nghiệp dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh...
Nhờ thành công trong thu hút đầu tư, nền kinh tế của tỉnh có những phát triển vượt bậc, tốc độ tăng trưởng kinh tế hằng năm luôn đạt ở mức cao so với các tỉnh đồng bằng sông Hồng và cao hơn cả nước: Bình quân giai đoạn 1997 - 2016, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 15,37%/năm, trong đó ngành công nghiệp - xây dựng tăng bình quân 23,9% (tính riêng giai đoạn 2000 - 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 17,4%/năm), đưa quy mô nền kinh tế tăng gấp hơn 40 lần so với năm 1997 (từ 1,96 nghìn tỷ đồng năm 1997 lên 85,3 nghìn tỷ đồng năm 2017). Giá trị thu nhập (GRDP - giá hiện hành) bình quân đầu người liên tục tăng, từ 2,18 triệu đồng năm 1997 lên 79,02 triệu đồng năm 2017... Giai đoạn 2016 - 2018, nền kinh tế của tỉnh tiếp tục tăng trưởng ổn định ở mức khá; tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP - giá so sánh với năm 2010) năm 2018 ước đạt 78,27 nghìn tỷ đồng, tăng 25,3% so với năm 2015. Trong công nghiệp, khu vực FDI tiếp tục có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của tỉnh, giá trị sản xuất (giá so sánh với năm 2010) khu vực FDI hằng năm vẫn chiếm tới 84% - 85% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp. Quy mô nền kinh tế ngày càng tăng, tổng sản phẩm trong tỉnh (giá hiện hành) năm 2018 ước đạt 92,7 nghìn tỷ đồng, gấp 1,27 lần so với năm 2015...
Bài học kinh nghiệm và một số định hướng
Sau gần 22 năm tái lập, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng bộ và nhân dân, tỉnh Vĩnh Phúc đã đạt được những thành tựu quan trọng và toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhiều năm duy trì ở mức cao. Quy mô nền kinh tế ngày càng tăng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện... Đạt được những thành tựu trên, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp, là do:
Thứ nhất, tỉnh Vĩnh Phúc đã xác định đúng vai trò, xu hướng của đầu tư FDI theo từng giai đoạn phát triển, có cách nhìn nhạy bén về kinh tế, nắm bắt thời cơ, thuận lợi để kịp thời đề ra những chủ trương, đường lối đúng đắn;
Thứ hai, coi trọng công tác quy hoạch và tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng để phục vụ thu hút đầu tư;
Thứ ba, công tác chỉ đạo, điều hành thông suốt, thống nhất, có nền nếp, kỷ cương trong bộ máy công quyền, tạo niềm tin và độ tin cậy đối với nhà đầu tư. Phải luôn luôn hướng về nhà đầu tư và doanh nghiệp để nhanh chóng tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Mọi thủ tục hành chính phục vụ hoạt động đầu tư phải đơn giản, gọn nhẹ, không làm tăng chi phí, không gây phiền hà, sách nhiễu cho nhà đầu tư;
Thứ tư, có chính sách giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa nhà đầu tư và người dân, góp phần ổn định việc làm, bảo đảm an sinh và công bằng xã hội, tạo sự đồng thuận trong nhân dân;
Thứ năm, coi trọng công tác cải thiện và quảng bá môi trường đầu tư;
Thứ sáu, tập trung đào tạo đội ngũ lao động có trình độ, tay nghề đáp ứng nhu cầu lao động của các doanh nghiệp FDI, từ đó giữ chân nhà đầu tư ở lại tỉnh Vĩnh Phúc.
Quan điểm về thu hút đầu tư của tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian tới:
Một là, chiến lược thu hút, sử dụng và quản lý đầu tư của tỉnh phải được thiết kế trong khuôn khổ chiến lược chung của cả nước, đồng bộ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh theo từng giai đoạn cụ thể. Chiến lược này có vai trò tương hỗ với các chiến lược liên quan, trong đó có việc định hướng các mục tiêu, như phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển đồng bộ thị trường, phát triển nguồn nhân lực, thủ tục hành chính...
Hai là, xác định rõ định hướng thu hút đầu tư nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giải quyết việc làm, đóng góp cho ngân sách, chuyển giao công nghệ, bảo vệ môi trường, cải thiện mối quan hệ đối ngoại... Xác định rõ quan điểm về đầu tư nước ngoài là khu vực doanh nghiệp, hoạt động theo khuôn khổ pháp luật và tín hiệu thị trường.
Ba là, chú trọng quản lý hoạt động sau cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, sử dụng có hiệu quả nguồn đầu tư nước ngoài, hạn chế tối đa các hệ quả của nguồn vốn này. Nâng cao năng lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài; tăng cường sự phối hợp với các bộ, ngành Trung ương và các sở, ban, ngành trên địa bàn tỉnh trong thu hút, sử dụng và quản lý vốn đầu tư nước ngoài.
Trên cơ sở đó, tỉnh Vĩnh Phúc đặt ra một số mục tiêu cụ thể là: 1- Phục vụ việc đổi mới mô hình tăng trưởng, cấu trúc lại nền kinh tế của tỉnh, nâng cao năng lực cạnh tranh nền kinh tế và đóng góp vào phát triển bền vững trong dài hạn. Trong đó, đầu tư nước ngoài phải đóng vai trò làm cho nền kinh tế phát triển hài hòa theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. 2- Trước mắt, mục tiêu tăng cường năng lực cạnh tranh của khu vực FDI đến năm 2020 là phát triển được khu vực này với tiềm lực cao hơn về công nghệ và sản xuất được một số công đoạn sử dụng công nghệ cao, thay vì chỉ sản xuất lắp ráp và gia công như hiện nay; đồng thời tăng giá trị tăng thêm của sản phẩm sản xuất tại Việt Nam. 3- Giai đoạn 2015 - 2020 thu hút được 120 dự án FDI mới với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 1,5 - 1,7 tỷ USD; đến năm 2020 vốn thực hiện của các dự án FDI đạt 55% tổng vốn đăng ký.
Một số định hướng trong thời gian tới:
Về định hướng lĩnh vực đầu tư: Các dự án có hàm lượng khoa học công nghệ cao, thân thiện với môi trường, đóng góp lớn cho phát triển kinh tế - xã hội; các dự án có khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu; các dự án trong các lĩnh vực: Công nghiệp điện tử, viễn thông; công nghiệp cơ khí (sản xuất, lắp ráp ô-tô, xe máy...), vật liệu xây dựng, vật liệu mới và công nghiệp hỗ trợ của ngành sản xuất, lắp ráp ô-tô, xe máy, điện tử; phát triển kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, dự án du lịch, dịch vụ, trường đại học tầm cỡ quốc tế; kêu gọi đầu tư vào các ngành dịch vụ, như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, y tế, giáo dục - đào tạo.
Về định hướng địa bàn đầu tư: Tập trung thu hút các dự án đầu tư vào các khu công nghiệp, nâng cao tỷ lệ lấp đầy ở các khu công nghiệp. Gắn phát triển công nghiệp với bảo vệ môi trường; xử lý triệt để tình trạng ô nhiễm môi trường tại các khu, cụm công nghiệp. Từng bước hình thành các trung tâm công nghiệp theo vùng, khuyến khích thu hút các dự án công nghiệp hỗ trợ của ngành sản xuất lắp ráp ô-tô và phụ tùng ô-tô, xe máy.
Về định hướng đối tác: Chú trọng thu hút nguồn vốn FDI từ các tập đoàn đa quốc gia; các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), đồng thời hướng tới các đối tác tiềm năng đến từ châu Âu (Đức, I-ta-li-a) và Hoa Kỳ.
Với những định hướng mang tính đột phá cùng chính sách thu hút đầu tư hỗ trợ doanh nghiệp linh hoạt, hấp dẫn và khai thác có hiệu quả các tiềm năng lợi thế và tiềm năng về kinh tế, tài nguyên và con người, tỉnh Vĩnh Phúc hy vọng và tin tưởng sẽ tiếp tục là điểm đến thành công đối với tất cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nhằm đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế, tỉnh Vĩnh Phúc đã đề ra một số giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, tập trung các nguồn lực để từng bước xây dựng, hoàn thiện, đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng ở các khu, cụm công nghiệp hiện có. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để thu hút thêm các nhà đầu tư thứ cấp, tăng tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp. Đẩy nhanh tiến độ bồi thường giải phóng mặt bằng và bàn giao đất sạch cho chủ đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp: Thăng Long Vĩnh Phúc, Tam Dương II khu A, khu B, Phúc Yên, Chấn Hưng, Lập Thạch, Sông Lô, Tam Dương I để có quỹ đất cho sản xuất và triển khai dự án.
Thứ hai, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Ưu tiên thu hút các dự án đầu tư về công nghiệp công nghệ cao, công nghệ sạch, dự án về phát triển du lịch, dịch vụ. Không tiếp nhận, cấp phép cho những dự án sử dụng công nghệ lạc hậu, tiêu hao nhiều năng lượng, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường sinh thái. Hỗ trợ triển khai đẩy nhanh tiến độ các dự án đã cấp phép đầu tư nhằm sớm hoàn thành dự án và đi vào hoạt động.
Thứ ba, thường xuyên theo dõi sát tình hình hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh, nhất là các doanh nghiệp chủ lực để kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh. Tổ chức các hội nghị đối thoại với doanh nghiệp, công nhân, chủ động tổ chức các đoàn khảo sát trực tiếp tại doanh nghiệp, duy trì gặp gỡ hằng tuần giữa lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh và doanh nghiệp...
Thứ tư, tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 01-NQ/TU, ngày 01-9-2016, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về một số giải pháp cơ bản cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2016 - 2021 với mục tiêu là tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đầu tư kinh doanh, giảm tối đa chi phí khởi nghiệp, giảm chi phí đầu vào, khuyến khích đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp./.
Quy mô nền kinh tế tăng mạnh qua các năm tạo điều kiện cho thu ngân sách trên địa bàn tỉnh tăng cao. Từ một tỉnh phụ thuộc vào ngân sách trung ương, năm 1997 thu ngân sách mới đạt 114 tỷ đồng, đến năm 2004 tỉnh đã tự cân đối được chi ngân sách và có phần đóng góp, điều tiết về cho ngân sách trung ương. Năm 2017, thu ngân sách đạt trên 28,7 nghìn tỷ đồng (gấp 280 lần so với năm 1997), trong đó thu nội địa đạt gần 25 nghìn tỷ đồng.
Năm 2019: Tầm nhìn - sức mạnh - và khát vọng Việt Nam  (01/02/2019)
Công tác đối ngoại của lực lượng công an nhân dân trong tình hình mới  (01/02/2019)
Xây dựng nông thôn mới gắn với giảm nghèo bền vững  (01/02/2019)
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên