Năm 1840, vua Minh Mạng ký dụ cho khai thác than đá tại núi Yên Lãng nay thuộc xã Yên Thọ, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Nội dung bức dụ cho phép thành lập công trường Khai thác than đá. Lực lượng khai thác là nông dân, mục đích khai thác là để chống đói cho nông dân... Từ đó, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam đã thống nhất và quyết định năm 1840 là năm đầu tiên ra đời của ngành khai thác than Việt Nam và vua Minh Mạng là “ông tổ” của ngành khai thác than Việt Nam. Cũng từ đây, những người nông dân của Công trường khai thác than Yên Lãng trở thành những người công nhân đầu tiên của ngành khai thác than Việt Nam. Văn hóa công nhân mỏ hình thành từ đó, đến nay có chiều dài lịch sử trên 180 năm.

Trên 180  năm qua, cùng với người dân Quảng Ninh hàng chục vạn lao động từ mọi miền đất nước tới Quảng Ninh và trở thành công nhân mỏ. Trong hành trang của họ có tinh hoa văn hóa của các vùng miền, của các dân tộc Việt Nam, từ Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Bắc Trung Bộ, đồng bằng sông Hồng, Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ, Đông Bắc... Qua nhiều thời kỳ lịch sử, từ phong trào đấu tranh cách mạng giải phóng khu mỏ, thi đua lao động SX vì miền Nam ruột thịt đến thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, văn hóa công nhân mỏ hình thành, phát triển và có sức sống mãnh liệt được kết tinh bởi truyền thống, tinh hoa văn hóa của dân tộc và đậm bản sắc riêng có của giai cấp công nhân mỏ, đó là truyền thống “Kỷ luật và đồng tâm”.

Cách đây 88 năm, dưới sự lãnh đạo của các chi bộ Đảng Cộng sản ở khu mỏ, cuộc Tổng bãi công tháng 11 năm 1936 của hơn 3 vạn thợ mỏ vùng Hòn Gai, Cẩm Phả, Đông Triều với khẩu hiệu “Kỷ luật và Đồng tâm chúng ta nhất định thắng” yêu cầu chủ mỏ phải tăng lương, chống đánh đập, ngược đãi công nhân, cải thiện điều kiện lao động, đã gây choáng váng cho bộ máy thống trị thực dân Pháp và chủ mỏ Đông Dương, buộc chúng phải chấp nhận mọi yêu sách của công nhân. Thắng lợi của cuộc Tổng bãi công 1936 đã mang lại bài học to lớn về tập hợp lực lượng công nhân, về tính kỷ luật, đồng tâm trong đấu tranh, về sự đùm bọc, tương thân, tương ái của những người cùng cảnh ngộ, cùng nghề nghiệp, cùng giai cấp.

Bài học “Kỷ luật và Đồng tâm” đã đồng hành với cuộc đấu tranh của đội ngũ công nhân mỏ trong các chặng đường cách mạng và trở thành một động lực to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Truyền thống “Kỷ luật và Đồng tâm” là tài sản tinh thần vô giá của các thế hệ thợ mỏ và ngày càng được các thế hệ cán bộ, công nhân, người lao động phát huy mạnh mẽ, lan tỏa những giá trị tích cực trong điều kiện mới, phù hợp với tình hình cụ thể hiện nay của Tập đoàn, trở thành sức mạnh nội lực, giúp TKV luôn vượt qua những khó khăn thách thức, đạt được những thành công trong quá trình xây dựng và phát triển.

Nét văn hóa rất riêng đó chính là nền tảng tinh thần vững chắc để Thợ mỏ hướng tới xây dựng Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam phát triển và vươn lên mạnh mẽ như mong muốn của Đảng, Bác Hồ đối với ngành Than: “Xây dựng ngành Than trở thành ngành kinh tế gương mẫu cho các ngành kinh tế khác”; “Xây dựng ngành Than trở thành một ngành kinh tế mạnh, với vị trí là một trong những trụ cột chính bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia…” và chính văn hóa của những người thợ mỏ sẽ lan tỏa và đại diện mang nét đặc trưng cho văn hóa thợ mỏ Việt Nam ở tất cả các vùng miền trên Tổ quốc.

Với đặc thù điều kiện làm việc của công nhân ngành Than là rất khó khăn và nặng nhọc, đòi hỏi người lao động không chỉ có sức khoẻ mà còn đòi hỏi phải có sự quyết tâm, lòng yêu nghề và tình yêu đất mỏ. Những người thợ mỏ Quảng Ninh hầu hết là những người từ nơi khác đến, nhưng đều có chung một suy nghĩ, một hành động là sản xuất Than cho Tổ quốc, làm giàu cho quê hương Quảng Ninh. Dù trong khó khăn vất vả nhưng họ vẫn hăng say phấn đấu vì lợi ích chung, đội ngũ công nhân mỏ là một tập thể đoàn kết, có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần cù, trung thực, lao động chăm chỉ và sáng tạo, có lương tâm với nghề nghiệp, tích cực học tập cầu mong tiến bộ, có ý trí vươn lên trong cuộc sống, luôn gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, nêu gương và học tập theo tư tưởng đạo đức của Bác.

Tạo dựng môi trường văn hóa tốt để phát triển con người là điều rất quan trọng, trong những năm qua, Đảng ủy TQN cùng với Đảng ủy TKV luôn tăng cường sự phối hợp với các địa phương, nơi các đơn vị đứng chân để chỉ đạo việc gắn kết giữa các doanh nghiệp với địa phương trong phong trào xây dựng đời sống văn hóa tại các khu phố, làng xã; phối hợp xây dựng các khu phố văn hóa, gia đình văn hóa, tạo sự gắn kết giữa các gia đình thợ mỏ với địa phương, khu phố, đây chính là nơi để hòa nhập cộng đồng thợ mỏ, nơi tổ chức các hoạt động, các phong trào chung tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển và hòan thiện nhân cách và đạo đức của con người theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Từ nhiều năm qua, ngành Than luôn quan tâm, chăm lo đến các hoạt động văn hóa - xã hội, điều này được thể hiện bằng việc xây dựng các quy chế hoạt động, đầu tư cơ sở vật chất, hệ thống CLB văn hóa thể thao được hình thành đến tận các cơ sở và đã duy trì, hoạt động một cách thống nhất, có chất lượng và hiệu quả. Hầu hết các đơn vị trong ngành than tại Quảng Ninh đã rất quan tâm đến việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho hoạt động văn hóa, thể thao. 100% các đơn vị đều có sân chơi thể thao, khuôn viên giải trí, thư viện, phòng truyền thống, nhà thi đấu, rèn luyện thể chất khang trang, đầu tư trang thiết bị, các phương tiện hoạt động cho các nhà sinh hoạt văn hóa công nhân, duy trì tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ và thể dục thể thao, như: hội diễn, hội thi và các cuộc giao lưu văn nghệ, tổ chức các giải thể thao truyền thống hàng năm. Các hoạt động đó đã phần nào đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa, nâng cao thể lực, trí lực của công nhân viên chức và người lao động, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong từng doanh nghiệp, đã tác động tích cực đến việc thúc đẩy phong trào thi đua lao động sản xuất và xây dựng đời sống văn hóa tại cơ sở.

Có thể nói, các hoạt động văn hóa, thể thao đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của người thợ mỏ; vào những thời gian sau giờ làm việc và những ngày nghỉ tất cả các nhà sinh hoạt, sân thể thao, khu vui chơi giải trí, thư viện, phòng truyền thống đều được sử dụng tối đa để phục vụ công nhân lao động.

Công tác bảo tồn, bảo tàng, giáo dục truyền thống đã được các cấp lãnh đạo từ Tập đoàn, Đảng ủy Than QN đến các cơ sở luôn được quan tâm. Nhiều đơn vị đã đầu tư xây dựng nhà truyền thống, lưu giữ nhiều hình ảnh, tư liệu, hiện vật trong quá trình hình thành và phát triển của đơn vị, như các Công ty Than Mạo Khê, Vàng Danh, Uông Bí, Đèo Nai - Cọc Sáu, Hà Tu, Hà Lầm, Cao Sơn... Hiện nay đang tiếp tục sưu tầm và lưu giữ những tư liệu, hình ảnh, hiện vật của quá trình hình thành và phát triển Ngành Than - Khoáng sản Việt Nam. Các di tích lịch sử đã được Nhà nước xếp hạng gắn liền với phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Quảng Ninh như: Ngã ba đường lên mỏ Đèo Nai (nơi bắt đầu diễn ra cuộc đình công của hơn 3 vạn thợ mỏ Cẩm Phả ngày 12/11/1936 ), trận địa pháo cao xạ nữ tự vệ nhà sàng Cửa Ông, cầu Pooctic số 1 cảng Cửa Ông, tiểu đội pháo xạ 37 ly anh hùng Đặng Bá Hát đều được tu bổ, gìn giữ; khánh thành cụm tượng đài Thợ mỏ tại Quảng trường 12/11, Cẩm Phả; cụm “di tích địa điểm khai thác than đầu tiên của Việt Nam tại xã Yên Thọ - huyện Đông Triều”,… đó là tài sản vô giá, khắc họa rõ nét về truyền thống đấu tranh cách mạng hào hùng của các thế hệ thợ mỏ Quảng Ninh

Tỉnh Quảng Ninh có vị trí địa chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - quốc phòng, được ví như “một Việt Nam thu nhỏ”. Thiên nhiên ưu ái, ban tặng cho Quảng Ninh những tài nguyên vô giá với Di sản - Kỳ quan thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long độc nhất vô nhị; Yên Tử linh thiêng, huyền bí và bể than đá giàu có lớn nhất cả nước. Trải qua các thời kỳ, nhân dân Quảng Ninh luôn phát huy truyền thống yêu nước nồng nàn, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, tích cực xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước. Quảng Ninh còn là cái nôi của giai cấp công nhân Việt Nam gắn liền với nền công nghiệp khai Khoáng, nơi phát triển sớm phong trào vô sản hóa của Đảng, vùng mỏ Quảng Ninh là trường học thực tiễn, tôi luyện ý chí kiên cường của các chiến sĩ cộng sản. Nhiều chiến sĩ cộng sản đã thực hiện “vô sản hóa” trong đội ngũ công nhân vùng mỏ, sau này đã trở thành cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, như các đồng chí: Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Văn Thụ, Vũ Văn Hiếu,... sự ra đời Đảng bộ, Đặc khu mỏ vào tháng 10-1930 đồng chí Vũ Văn Hiếu là Bí thư Đặc khu ủy vùng mỏ đầu tiên đánh dấu mốc son chói lọi trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân vùng mỏ và nhân dân các dân tộc Quảng Ninh. Quảng Ninh cũng vinh dự và tự hào khi 9 lần được đón Bác Hồ về thăm và luôn ghi lòng tạc dạ để thực hiện lời dạy của Người “Xây dựng ngành Than trở thành ngành kinh tế gương mẫu và tỉnh Quảng Ninh trở thành một tỉnh giàu đẹp và vững mạnh”. Đó là niềm tự hào và là sự cổ vũ lớn lao đối với Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và Nhân dân các dân tộc của Quảng Ninh hôm nay.

Thực hiện theo lời dạy của Bác, cán bộ, đảng viên và công nhân lao động  ngành Than đã phấn đấu không ngừng, tập trung sản xuất và chiến đấu, xây dựng vùng mỏ thân yêu ngày càng giàu đẹp. Tiếp thu tinh thần đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, những năm qua, sản xuất của ngành than không ngừng phát triển, có mức tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước, năng suất lao động không ngừng được tăng lên, môi trường và điều kiện làm việc được cải thiện, đời sống vật chất và tinh thần của người lao động được nâng cao, đặc biệt về đời sống văn hóa, tinh thần ngày càng được phát triển mạnh mẽ.

Trong chiến lược SXKD của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt nam, lãnh đạo Tập đoàn luôn xác định tỉnh Quảng Ninh là địa bàn chiến lược, trọng yếu, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển bền vững của Tập đoàn, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam có gần 80 nghìn thợ mỏ, hằng năm SX trên 40 triệu tấn than, doanh thu trên 110 nghìn tỷ đồng. Vì vậy, Tập đoàn đã tập trung mọi nguồn lực, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả SXKD, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được Đảng và Nhà nước giao: là một trong 3 trụ cột bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Đồng thời, Tập đoàn cũng xác định phát triển bền vững ngành công nghiệp Than có đóng góp quan trọng, giữ ổn định phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Ninh từ đó thống nhất từ trong nhận thức đến phương châm hành động về mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa ngành Than và Tỉnh Quảng Ninh “tuy hai nhưng là một”  được khẳng định bằng những kết quả nổi bật đó là: Trong thời gian gần đây từ 2010 - 2023 nộp ngân sách của TKV chiếm tỷ trọng khoảng 42% tổng thu ngân sách của tỉnh Quảng Ninh và bằng 70% tổng thu nội địa của tỉnh. Chi trả tiền lương và các khoản thu nhập khác cho người lao động trên địa bàn tỉnh trên 19 nghìn tỷ đồng 1 năm bảo đảm an sinh xã hội cho khoảng 30% - 35% dân số của tỉnh Quảng Ninh. Triển khai các hoạt động an sinh xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội về “Điện - Đường - Trường” hằng năm trên 40 tỷ đồng; tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới, góp phần với tỉnh Quảng Ninh sớm hòan thiện tiêu chí nông thôn mới trước thời hạn và đang tiếp tục thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu. Đặc biệt qua Đại dịch COVID-19 từ năm 2019 đến năm 2022 nhiều ngành kinh tế và các doanh nghiệp khắc phải dừng hoặc hoạt động cầm chừng thì ngành than đã giữ vững đội ngũ, duy trì hoạt động SXKD có hiệu quả cao, ổn định việc làm và thu nhập cho người lao động, góp phần quan trọng giữ vững đà tăng trưởng thu ngân sách của tỉnh Quảng Ninh duy trì 2 con số. Qua đó vị thế, vai trò của ngành than ngày càng được khẳng định và nâng cao rõ rệt.

Xây dựng kinh tế xanh, kinh tế tuần hòan, thân thiện với môi trường đã được đưa vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định chủ trương “Xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hòan, thân thiện với môi trường”, “Xây dựng lộ trình cơ chế, chính sách, pháp luật để hình thành, vận hành mô hình kinh tế tuần hòan”. Đối với tỉnh Quảng Ninh, từ 2011 - nay, Nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh đưa công cuộc đổi mới toàn diện đi vào chiều sâu, chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh”, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xanh hóa, lấy du lịch làm mũi nhọn gắn với phát triển bền vững dựa trên các trụ cột thiên nhiên - con người - văn hóa.

Là một trong các tập đoàn kinh tế trụ cột của nhà nước trong việc  bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) trong quá trình xây dựng, phát triển & trưởng thành luôn đặt vấn đề bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, điều đó có ý nghĩa sống còn trong Chiến lược phát triển bền vững của Tập đoàn, phát triển sản xuất, kinh doanh gắn với mục tiêu bảo vệ sức khỏe của nhân dân, người lao động, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái.

Thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TU, ngày 12/3/2018, của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh; Chương trình hành động số 68/CTr-UBND, ngày 12/4/2018, của UBND tỉnh Quảng Ninh về bảo vệ môi trường tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2018 - 2022; Quy hoạch môi trường tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Đảng ủy Tập đoàn và Đảng ủy Than Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết liên tịch số 33-NQLT/ĐUTKV-ĐUTQN ngày 18/4/2018 “về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong thực hiện công tác bảo vệ môi trường giai đoạn 2018 - 2020”; Đảng ủy Tập đoàn ban hành Nghị quyết số 27/NQ-ĐU ngày 13/4/2022 “về tăng cường lãnh đạo thực hiện công tác bảo vệ môi trường giai đoạn đến 2025 định hướng tới 2030” để chỉ đạo thực hiện trong toàn Tập đoàn, đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

Trên cơ sở định hướng trọng tâm đó, TKV đã chủ động và tích cực tham gia vào quá trình chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính sang mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hòan hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, góp phần hiện thực hóa mục tiêu đưa phát thải ròng về 0 (Net zero) vào năm 2050.

Trong thời gian qua, Tập đoàn đã triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tuần hòan, thực hiện chuyển đổi mô hình kinh tế từ “nâu” sang “xanh” theo chủ trương của tỉnh Quảng Ninh, hướng tới phát triển bền vững, giảm phát thải ròng theo đúng các cam kết của Chính phủ tại COP 26, COP 28.

Giải pháp đổi mới công nghệ sản xuất

Đối với sản xuất và chế biến than: Chuyển dịch đầu tư đổi mới công nghệ khai thác theo hướng cơ giới hóa, thông minh hóa trong khai thác hầm lò (cột chống thủy lực, dàn chống thủy lực, máy khấu...), đầu tư đồng bộ thiết bị công suất lớn trong khai thác lộ thiên (máy xúc dung tích gầu xúc lớn 10 - 12m3, ô tô tải trọng  90 - 100 tấn...) góp phần giảm tiêu hao gỗ chống lò, giảm tổn thất than, giảm phát sinh bụi, khí thải... Khâu sàng tuyển, chế biến than được đầu tư thiết bị lọc ép bùn công suất lớn để tăng tỷ lệ thu hồi, toàn bộ nước công nghệ được tuần hòan tái sử dụng, không phát thải ra môi trường; Đầu tư hệ thống băng tải vận chuyển than ra cảng thay thế ô tô, hạn chế tối đa sự phát sinh bụi, tiếng ồn, khí thải; hệ thống biến tần điều khiển cho các thiết bị điện có công suất lớn để tiết kiệm điện; Tận thu, sử dụng hiệu quả tài nguyên thông qua chế biến sâu, triệt để các loại than chất lượng xấu ngoài tiêu chuẩn. Tập đoàn đã dừng hoạt động nhà máy tuyển than Nam cầu trắng để bảo đảm môi trường sinh thái cho phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố Hạ Long.

Đối với các nhà máy nhiệt điện, xi măng: Tro xỉ, bùn thải được thu gom và quản lý theo đúng quy định, đồng thời thực hiện nghiêm quy trình phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường đối với chất thải. Hệ thống xử lý khí thải, lọc bụi tĩnh điện được đầu tư đồng bộ cùng dây truyền sản xuất, kiểm soát tự động, liên tục bảo đảm tiêu chuẩn trước khi xả thải ra môi trường và được các cơ quan quản lý xác nhận trước khi đưa vào vận hành. Triển khai áp dụng Tiêu chuẩn ISO 14001 về Hệ thống quản lý môi trường cho các nhà máy để nâng cao hiệu quả quản lý, kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Về  nâng cao năng lực xử lý chất thải mỏ

Vận hành đồng bộ và hiệu quả 54 trạm xử lý nước thải mỏ với khối lượng xử lý hàng năm đạt trên 150 triệu m3, các trạm xử lý đều được lắp đặt hệ thống điều khiển liên động cùng với hệ thống quan trắc tự động liên tục để giám sát chất lượng nước thải được xử lý, bảo đảm toàn bộ nước thải mỏ được xử lý triệt để và đáp ứng tiêu chuẩn xả thải trước khi xả thải ra môi trường.

Duy trì tốt hoạt động của Nhà máy xử lý chất thải nguy hại công nghiệp của TKV tại Quảng Ninh, hàng năm xử lý trên 3.600 tấn chất thải nguy hại của các đơn vị thành viên, loại trừ nguy cơ sự cố môi trường do vận chuyển chất thải liên tỉnh, trong đó trên 50% sản phẩm sau xử lý được tái sử dụng cho sản xuất; tro xỉ nhiệt điện được tái sử dụng trên 27% tương ứng trên 600.000 m3/năm làm vật liệu xây dựng và san lấp nền, phần còn lại được quản lý, đổ thải theo đúng quy định; các loại chất thải khác phát sinh trong sản xuất đều được thu gom, xử lý theo đúng quy định.

Về tăng cường các giải pháp bảo vệ môi trường thường xuyên

Thường xuyên tăng cường phun tưới nước dập bụi, vệ sinh môi trường; vận hành hiệu quả trên 118 thiết bị phun sương dập bụi cao áp cùng các loại xe tưới đường và hệ thống dập bụi khác, giảm thiểu tối đa sự phát thải của bụi ra môi trường xung quanh.

Chú trọng các giải pháp trồng cây phủ xanh cải tạo phục hồi môi trường và cảnh quanh. Tính đến hết năm 2023, toàn TKV đã trồng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trên 1.800 ha, tổ chức có hiệu quả công tác chăm sóc và duy trì sự phát triển, tăng trưởng của cây trồng. Cùng với đó, hàng năm tiến hành trồng mới từ 200 - 250 ha (tương ứng trên 1 triệu cây xanh/năm), thúc đẩy cải thiện cảnh quan môi trường nơi sản xuất và làm việc, từng bước hiện thực hóa mục tiêu “Xanh hóa môi trường khai thác mỏ” và “ Đưa công viên vào trong Mỏ, Nhà máy”.

Về chủ động trong thích ứng với biến đổi khí hậu

Định kỳ củng cố đê đập, nạo vét thường xuyên hố lắng trước đập để bảo đảm hiệu quả tích chứa đất đá trôi, ngăn chặn hiện tượng bồi lấp. Đầu tư xây dựng bổ sung các đê, đập chắn đất đá chân bãi thải để tạo vành đai an toàn, phòng chống sạt lở, trôi trượt đất đá tại các bãi thải; bảo đảm các yêu cầu về bảo vệ môi trường đối với trên 150 triệu m3 đất đá thải/năm.

Triển khai mạnh mẽ và hòan chỉnh việc chuyển đổi số doanh nghiệp để tăng hiệu quả quản lý và giám sát các công đoạn sản xuất, qua đó giúp tiết kiệm nguyên, nhiêu liệu và sử dụng năng lượng hiệu quả; trước mắt hòan thành triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu môi trường TKV vào đầu năm 2025.

Việc triển khai đồng bộ các giải pháp về công tác bảo vệ môi trường đã thể hiện rõ trách nhiệm cũng như quyết tâm rất cao CBCNV và người lao động trong Tập đoàn TKV nói chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng bảo đảm phương châm ứng xử hài hòa với thiên nhiên, theo quy luật tự nhiên, phòng ngừa là chính; kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; lấy bảo vệ sức khỏe nhân dân và người lao động làm mục tiêu hàng đầu, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế xanh của tỉnh Quảng Ninh.

Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh, tỉnh Quảng Ninh xác định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, tỉnh Quảng Ninh đã tập trung đầu tư hệ thống dịch vụ chất lượng cao, giá trị gia tăng lớn, đa dạng hóa loại hình sản phẩm du lịch, hướng đến du lịch bền vững, thân thiện với môi trường. Từ phát triển kết cấu hạ tầng giao thông như đường cao tốc, sân bay Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh tập trung vào phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ du lịch cũng như đa dạng hóa các sản phẩm du lịch đồng bộ, hiện đại, hấp dẫn để tạo ra những bước phát triển đột phá mang bản sắc riêng. Gần 80 ngàn CBCNV của Tập đoàn trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã và đang được thừa hưởng những thành quả đó, luôn ủng hộ và tích cực tham gia, sử dụng các sản phẩm du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Hằng năm, các đơn vị ngành than trên địa bàn tỉnh đều chi từ 3 đến 5 triệu đồng/người để CBCNV tổ chức tham quan, du lịch với tổng số tiền ước tính trên 300 tỷ đồng, tập trung chủ yếu các hoạt động thăm quan, du lịch trên đị bàn tỉnh Quảng Ninh.

Truyền thống “Kỷ luật và Đồng tâm” đã đã trở thành biểu tượng tinh thần của ngành Than cũng như của tỉnh Quảng Ninh, để văn hóa công nhân thực sự là cơ sở nền tảng để bảo tồn và phát huy di sản văn hóa công nghiệp than trong phát triển nền kinh tế xanh ở Quảng Ninh. Trong giai đoạn tới Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam định hướng thực hiện các giải pháp trọng tâm sau

1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động nâng cao nhận thức, trước hết trong lãnh đạo cấp ủy, cơ quan chuyên môn về ý nghĩa và trách nhiệm đối với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới; chú trọng nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị, ý thức giác ngộ giai cấp, hiểu biết pháp luật, phát huy lòng yêu nước, tinh thần tự hảo, tự tôn dân tộc của giai cấp công nhân; học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, làm cho cán bộ đảng viên và công nhân viên chức hiểu đầy đủ hơn về trách nhiệm của mình trong việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc,

2. Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh tuyên truyền, giáo dục, tổ chức các hoạt động thiết thực nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết sâu sắc của người thợ mỏ TKV và người dân Quảng Ninh về bản chất, ý nghĩa to lớn để từ đó tiếp tục gìn giữ, phát huy truyền thống văn hóa cốt lõi “Kỷ luật và Đồng tâm” của công nhân vùng mỏ Quảng Ninh, của ngành Than. Đặc biệt quan tâm triển khai thực hiện thật tốt Nghị quyết số 17-NQ/TU, ngày 30/10/2023, của Tỉnh ủy “về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Ninh trở thành nguồn lực nội sinh, động lực cho phát triển nhanh, bền vững”.

3. Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự phối hợp chặt chẽ giữa chuyên môn và các tổ chức đoàn thể quần chúng trong lĩnh vực văn hóa, đẩy mạnh công tác tuyên truyền các giá trị văn hóa truyền thống. Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 76-NQ/ĐU, ngày 09/01/2023, của Đảng ủy TKV về “Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo tồn và giá trị văn hóa truyền thống trong Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050” Xây dựng con người TKV phát triển văn hóa thợ mỏ “Kỷ luật - Đồng tâm - Trung thành - Nhân ái - Trách nhiệm”. Phát huy mọi nguồn lực để xây dựng, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong TKV.

4. Nâng cao một bước về công tác tuyên truyền giáo dục ý thức trách nhiệm trong hoạt động bảo vệ môi trường tới toàn thể CBCNV và người lao động. Thực hiện nghiêm túc Kết luận số 56-KL/TW, ngày 23/8/2019, của Bộ chính trị về tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Quyết định số 524/QĐ-TTg, ngày 1/4/2021, của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án trồng 1 tỷ cây xanh giai đoạn 2021 - 2025; Nghị quyết số 10-NQ/TU, ngày 26/8/2022, của Tỉnh ủy Quảng Ninh về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh nguồn nước. từng bước dần hình thành nếp sống, văn hóa bảo vệ môi trường của cán bộ công nhân viên, người lao động trong TKV, sớm hòan thành mục tiêu “Đưa công viên vào trong mỏ nhà máy”, “Xanh hóa môi trường khai thác mỏ”; quản lý môi trường theo Tiêu chí môi trường “Sáng - Xanh - Sạch” tạo nền tảng cơ sở để thực hiện triển khai phát triển Kinh tế xanh một cách hiệu quả trong Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản  Việt Nam, hòan thành xanh hóa môi trường khai thác mỏ, sản xuất sạch hơn, từng bước đưa các ngành Công nghiệp than, Khoáng sản, Điện lực và Vật liệu nổ Công nghiệp phát triển hài hòa với môi trường cộng đồng, thích ứng với biến đổi khí hậu.

4. Tiếp tục phát huy giá trị truyền thống cốt lõi, gắn kết chặt chẽ giữa bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa, truyền thống “Kỷ luật và Đồng tâm” trong Đảng bộ và Tập đoàn với xây dựng văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh, bằng các nội dung công việc cụ thể như xây dựng, tu bổ các cụm di tích lịch sử - văn hóa truyền thống, xây dựng hình ảnh “Người thợ mỏ - Người chiến sĩ”. Rà soát bổ sung, hòan thiện các cơ chế, chính sách về phát triền văn hóa của ngành, cần có những chính sách chung và chính sách đặc thù cho nguồn lực xây dựng và phát triển văn hóa, nhất là các hạt nhân làm công tác văn hóa tại cơ sở, khuyến khích thu hút các tài năng, phát huy tính sáng tạo để phát triển phong trào văn hóa bền vững.

5. Tiếp tục đầu tư xây dựng và nâng cao chất lượng các thiết chế văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong từng doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy phong trào thi đua lao động sản xuất, nâng cao đời sống người lao động. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp theo hệ thống tiêu chí chuẩn, tuyên truyền, nhắc nhở mọi người về trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi cá nhân trong thực hiện văn hóa doanh nghiệp. Huy động nguồn lực đầu tư, nâng cấp trang thiết bị hiện đại cho thiết chế văn hóa, các khu di tích lịch sử, xây dựng Bảo tàng Than trở thành di sản văn minh công nghiệp, di sản của giai cấp công nhân vùng Mỏ. Trên cơ sở bảo tồn, cải tạo một số khai trường có dấu ấn lịch sử đã đóng cửa mỏ hướng tới thu hút khách du lịch thăm quan, tìm hiểu về truyền thống và hoạt động khai thác than trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh góp phần làm phong phú thêm các sản phẩm du lịch trên địa bàn, thu hút khách du lịch đến với Quảng Ninh, tăng thời gian lưu trú, sử dụng các dịch vụ tại Quảng Ninh.

6. Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể quần chúng, đẩy mạnh các phong trào để xây dựng đời sống văn hóa ngay tại cơ sở, bảo đảm phát huy tính chủ động của các tổ chức và động viên mọi cá nhân tham gia vào các hoạt động văn hóa một cách chủ động và sáng tạo, làm cho đời sống văn hóa của công nhân mỏ ngày càng phong phú, tạo động lực thúc đẩy sản xuất, nâng cao đời sống người lao động, góp phần xây dựng Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam phát triển bền vững và xây dựng, phát triển Quảng Ninh là tỉnh kiểu mẫu giàu đẹp, văn minh, hiện đại./.