Phong trào Không liên kết

Phong trào Không liên kết (Non-Aligned Movement – NAM) ra đời trong cao trào giải phóng dân tộc làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ và trong bối cảnh chiến tranh lạnh có nguy cơ dẫn đến chiến tranh thế giới mới. Chính sách không liên kết là biểu thị ý chí của các nước độc lập non trẻ Á, Phi, Mỹ La-tinh đoàn kết đấu tranh bảo vệ và củng cố độc lập chính trị, từng bước giành độc lập kinh tế, bảo vệ hoà bình thế giới để tồn tại và phát triển.

Mặc dù hết sức đa dạng về văn hoá tín ngưỡng, về chế độ chính trị - xã hội, về lợi ích dân tộc, nhưng các nước không liên kết có nhiều đặc điểm giống nhau: đều đã bị thực dân đô hộ, kinh tế kém phát triển, cùng chung nguyện vọng muốn có hoà bình ổn định để xây dựng đất nước, thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Đó là cơ sở khách quan để phong trào có thể trở thành một tập hợp lực lượng rộng rãi, đoàn kết gắn bó trong một cương lĩnh hành động tối thiểu.

Tôn chỉ mục đích Phong trào Không liên kết là đấu tranh cho quyền tự quyết của các dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc, thủ tiêu chủ nghĩa thực dân cũ và thực dân mới, theo năm nguyên tắc chỉ đạo: hoà bình, độc lập, phát triển, không liên kết và không tham gia khối, nhóm quân sự, chính trị nào.

Tiêu chuẩn thành viên Phong trào:

- Là nước có chính sách độc lập.
- Kiên định ủng hộ các phong trào độc lập dân tộc.
- Không là thành viên của bất cứ một liên minh quân sự đa phương nào thành lập trong bối cảnh các cuộc xung đột giữa các cường quốc.
- Nếu một nước có hiệp định quân sự đa phương với một cường quốc, hoặc là thành viên của một hiệp định phòng thủ khu vực thì hiệp định hoặc hiệp ước đó không được ký kết trong bối cảnh những cuộc tranh chấp giữa các cường quốc.
- Nếu một nước đã nhượng căn cứ quân sự cho một nước ngoài, thì sự nhượng đó không được tiến hành trong bối cảnh các cuộc tranh chấp giữa các cường quốc.

Về cơ cấu tổ chức, Phong trào này không có trụ sở hay cơ chế thường trực (Ủy ban Phối hợp hoạt động theo cơ chế ad-hoc tại Liên hợp quốc). Phong trào Không liên kết là một loại thể chế quốc tế đặc biệt, là một hiện tượng mới trong luật pháp quốc tế. Nó không phải đơn thuần là một Hội nghị hoặc Diễn đàn Liên chính phủ họp định kỳ, cũng không phải là một tổ chức của các nước do một điều ước quốc tế lập ra, có điều lệ rõ ràng và được thể chế hoá chặt chẽ. Mức độ thể chế hoá của Phong trào tương đối lỏng lẻo và thể hiện chủ yếu ở tập quán và lề lối hoạt động.

Qua thực tiễn hoạt động, đã hình thành một hệ thống tổ chức gồm 3 cấp:

- Hội nghị cấp cao các vị đứng đầu nhà nước hoặc chính phủ các nước KLK, thông thường 3 năm họp một lần. Nguyên thủ của nước đăng cai Hội nghị cấp cao trở thành Chủ tịch đương nhiệm và là người phát ngôn của Phong trào.

- Giữa hai kỳ Hội nghị cấp cao, có hội nghị toàn thể các Bộ trưởng Ngoại giao và một số Hội nghị khác khi cần.

- Cơ quan thường trực của Phong trào là Uỷ ban phối hợp, thường xuyên hoạt động ở cấp đại sứ - đại diện các nước KLK bên cạnh Liên hợp quốc tại New York. Uỷ ban phối hợp có thể họp cấp Bộ trưởng khi cần.

Phong trào Không liên kết tồn tại hơn ba thập niên và không ngừng phát triển. Số thành viên chính thức tăng hơn 4 lần, từ 25 lên 118.
 
Nhìn lại lịch sử của Phong trào, có thể thấy, sự đóng góp của Phong trào vào việc giải quyết các vấn đề trọng đại của thế giới là to lớn và nói chung là tích cực. Hoạt động của Phong trào luôn thể hiện cuộc đấu tranh gay go phức tạp giữa hai khuynh hướng: giữa một bên là khuynh hướng tăng cường đoàn kết nội bộ, mở rộng hợp tác với các lực lượng hoà bình và dân chủ khác với một bên là các thế lực đồng minh công khai hoặc dấu mặt của đế quốc muốn lái Phong trào đi chệch mục tiêu cơ bản, làm suy yếu Phong trào.

Trong "chiến tranh lạnh", Phong trào KLK với những nguyên tắc, mục tiêu cơ bản của mình, đã có vai trò và đóng góp quan trọng vào đời sống chính trị quốc tế nói chung và việc bảo vệ lợi ích đối với các nước đang phát triển nói riêng. Tình hình thế giới, thực tế, đã có những biến đổi sâu sắc theo chiều hướng tích cực nhờ có sự đoàn kết đấu tranh của các lực lượng hoà bình, độc lập và dân chủ mà Phong trào Không liên kết là một bộ phận. Phong trào đã góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh bảo vệ hoà bình và an ninh quốc tế, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh hạt nhân, đòi giải trừ quân bị và thành lập khu vực hoà bình và phi hạt nhân. Phong trào đã cổ vũ và ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh giải phóng và bảo vệ độc lập dân tộc, là lực lượng quan trọng trong cuộc đấu tranh đòi thiết lập trật tự kinh tế quốc tế mới và trật tự thông tin quốc tế mới. Phong trào có đóng góp đáng kể vào việc giải quyết tranh chấp và xung đột giữa các nước thành viên bằng biện pháp hoà bình.

Sau “chiến tranh lạnh”, Phong trào, trong thời kỳ đầu, đã có những khó khăn nhất định trong việc xác định lại mục tiêu cho hoạt động của mình khi thế giới không còn hai cực. Tình hình hiện nay cho thấy các nước đang phát triển tiếp tục đứng trước nguy cơ can thiệp và áp đặt có hại cho độc lập chủ quyền và quyền lợi của mình. Do vậy các nước này tiếp tục có nhu cầu tham gia vào Phong trào để có một diễn đàn phối hợp với nhau, góp phần bảo vệ lợi ích an ninh quốc gia và phát triển của mình, chống sự áp đặt của các nước lớn và chống sự bất bình đẳng trong quan hệ Bắc - Nam, để phối hợp lập trường chung tại Liên hợp quốc và các diễn đàn quốc tế khác. Trong bối cảnh đó, phong trào KLK tiếp tục đóng vai trò không thể thiếu là một tập hợp lực lượng chính trị hùng hậu, là diễn đàn quan trọng để các nước không liên kết đang phát triển hình thành tiếng nói chung đối với các vấn đề toàn cầu quan trọng liên quan đến hoà bình, an ninh và phát triển.

Kể từ Hội nghị cấp cao 10 (Jarkarta 1992), Phong trào KLK đã có những bước điều chỉnh nhất định nhằm thích ứng với tình hình mới. Các quốc gia thành viên đều nhất trí cho rằng: Phong trào có khả năng và cần tiếp tục phát huy tiếng nói và vai trò chính trị trong tình hình mới hiện nay vì hoà bình, phát triển, tự quyết dân tộc, độc lập và chủ quyền quốc gia. Phong trào tiếp tục là chỗ dựa tinh thần, là tập hợp đoàn kết rộng rãi của 114 nước đang phát triển vì những lợi ích căn bản chung của các nước này và vì mục tiêu phấn đấu cho một trật tự thế giới công bằng, bình đẳng, lành mạnh. Việc Phong trào liên tục có thêm thành viên mới đã tiếp tục thể hiện sức sống, sự hấp dẫn và khẳng định vai trò chính trị không thể thiếu của mình. Ngày càng có nhiều nước bên ngoài Phong trào mong muốn được làm quan sát viên, khách mời chứng tỏ vị thế, tầm quan trọng của diễn đàn này trong việc tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần giải quyết các vấn đề cấp bách có tính khu vực hoặc toàn cầu.

Quan hệ Việt Nam và phong trào Không liên kết
 
Năm 1955, Việt Nam tham dự Hội nghị Á - Phi ở Băng-đung (In-đô-nê-xi-a), Hội nghị được nhiều người xem như là tiền thân của Phong trào KLK. Tại Hội nghị, Việt Nam đã tích cực thúc đẩy đoàn kết giữa các nước mới giành độc lập, góp phần xác lập những nguyên tắc cơ bản sau này trở thành các nguyên tắc chỉ đạo cho hoạt động của phong trào KLK.

Từ năm 1970 đến năm 1973, Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam làm quan sát viên (Hội nghị Georgetown, Guyana năm 1972), rồi làm thành viên Phong trào (tại Hội nghị cấp cao IV Angiê, 1973).

Năm 1976 tại Hội nghị cấp cao V (Colombo, Sri Lanca), nước Việt Nam thống nhất gia nhập Phong trào.

Bằng sự nghiệp chống ngoại xâm của mình, Việt Nam đã sớm gắn bó và đóng góp vào những mục tiêu và quá trình hình thành Phong trào KLK. Ngay cả khi chưa là thành viên chính thức của phong trào, Việt Nam đã có đóng góp quan trọng vào cuộc đấu tranh của các nước KLK. Sau khi giành độc lập (năm 1945), Việt Nam đã đi đầu trong phong trào giải phóng dân tộc, góp phần quan trọng xoá bỏ chủ nghĩa thực dân, chống chủ nghĩa đế quốc.

Từ khi tham gia phong trào, Việt Nam đã tham dự tất cả các Hội nghị Cấp cao và Hội nghị ngoại trưởng, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng tích cực tăng cường đoàn kết đề cao vai trò của Phong trào, nỗ lực đấu tranh cho mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; tích cực tham gia các hoạt động và có nhiều đóng góp quan trọng vào việc xây dựng các văn kiện của Hội nghị; đưa ra một số khuyến nghị cụ thể nâng cao vai trò của Phong trào trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, thương mại, đồng thời chia sẻ kinh nghiệm phát triển của Việt Nam.

Việt Nam luôn coi trọng việc tham gia vào Phong trào KLK, coi đó là chủ trương nhất quán, một bộ phận của chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá, bổ sung cho quan hệ song phương, khu vực và quốc tế của mình. Đồng thời, với những thành tựu đáng kể trong công cuộc Đổi mới, VIệt Nam cũng chủ trương tham gia và đóng góp tích cực hơn vào sự nghiệp phát triển chung của các nước không liên kết, đang phát triển. Trong quá trình tham dự, phương châm đóng góp của Việt Nam là: kiên trì các mục tiêu cơ bản KLK, thúc đẩy đoàn kết của Phong trào; đóng góp một cách có lựa chọn đối với các vấn đề chung của Phong trào; tăng cường tham khảo và phối hợp với các nước KLK chủ chốt./.